Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lam_t.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4
- MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 A. Lý do chọn đề tài 1 1. Cơ sở lý luận 1 2. Cơ sở thực tiễn 2 B. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 C. Mục đích nghiên cứu. 3 D. Phương pháp nghiên cứu. 3 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 A. Thực trạng thực tế việc dạy - học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” 4 I. Thuận lợi 4 1. Nội dung chương trình sách giáo khoa 4 2. Dạy và học của giáo viên - học sinh 4 II. Khó khăn 4 1. Đối với chương trình sách giáo khoa 4 2. Đối với giáo viên 4 3. Đối với học sinh 5 4. Sơ lược một số dạng bài tập Luyện từ và câu điển hình 5 B. Đề ra các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “ Luyện từ và câu”. 6 I. Biện pháp 1: Củng cố, nâng cao kiến thức kỹ năng làm các bài tập luyện từ và câu 6 II. Biện pháp 2: Tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập luyện từ và câu 7 III. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập để giúp học sinh làm các bài tập Luyện từ và câu 14 C. Kết quả nghiên cứu đạt được. 15 D. Bài học kinh nghiệm 16 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 18 I. Những hạn chế 18 II. Khuyến nghị. 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ A.Lý do chọn đề tài 1. Cơ sở lý luận Ở bậc học tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong số những môn học có vị trí rất quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường. Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là nền tảng hình thành khả năng giao tiếp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, trong môi trường hoạt động lứa tuổi, đồng thời nó là cơ sở để phát triển tư duy cho học sinh để tiếp thu các môn học khác. Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ. Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Nhờ có ngôn ngữ con người có khả năng tư duy. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4. Vì vậy, với một số kinh nghiệm được đúc rút qua những năm giảng dạy tại trường, tôi đề xuất sáng kiến kinh nghiệm về “Một số kinh nghiệm giúp học 1/20
- sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4” hy vọng góp phần tích cực cho việc nghiên cứu và giảng dạy tại nhà trường. 2. Cơ sở thực tiễn * Chương trình phân môn Luyện từ và câu - Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4: - Mở rộng hệ thống hóa vốn từ (19 tiết): + Các dạng bài tập: Tìm từ ngữ theo chủ điểm, nắm nghĩa, phân loại từ ngữ. Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ, tục ngữ, luyện sử dụng từ ngữ. - Tiếng cấu tạo từ (5 tiết): + Các dạng bài tập: Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng, từ. Phân loại từ theo cấu tạo, tìm từ theo kiểu cấu tạo, luyện sử dụng từ. - Từ loại (9 tiết): + Các dạng bài tập: Nhận diện từ theo loại, luyện viết danh từ riêng, tìm và phân loại từ theo từ loại, luyện sử dụng từ. - Câu (26 tiết): + Các dạng bài tập: Nhận dạng kiểu câu, phân tích cấu tạo câu, đặt câu theo mẫu, luyện sử dụng câu trong các tình huống khác nhau. - Dấu câu (4 tiết): + Các dạng bài tập: Hiểu chức năng của dấu câu, luyện sử dụng dấu câu: đặt dấu câu vào chỗ thích hợp; tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu. * Việc giảng dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 sao cho có hiệu quả đặt ra cho các giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế giảng dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Chương trình sách giáo khoa đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất đôi khi còn máy móc, chưa thật mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh khi làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng. Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. 2/20
- Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4”. B. Nhiệm vụ nghiên cứu. Tìm hiểu tình hình học phân môn luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4. C. Mục đích nghiên cứu. Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt và hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất. D. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra tôi mạnh dạn nghiên cứu học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau: I. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu). 2. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp. 3. Phương pháp điều tra 4. Phương pháp thực nghiệm 5. Phương pháp đàm thoại 6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm II. Tiến trình nghiên cứu 1. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và tìm hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4. 2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn. 3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê. 3/20
- PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ A. Thực trạng thực tế việc dạy - học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. I. Thuận lợi 1. Nội dung chương trình sách giáo khoa. Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. 2. Dạy và học của giáo viên - học sinh. Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. II. Khó khăn 1. Đối với chương trình sách giáo khoa Việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành. 2. Đối với giáo viên Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học phân môn này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau: - Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Một số ít giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 4/20
- 3. Đối với học sinh. Một số học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn Luyện từ và câu nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Một số học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa khô vừa khó. Một số học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy có những học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp . Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Học sinh còn nhầm lẫn giữa từ láy và từ ghép ví dụ: Từ dẻo dai, chí khí một số em lại cho là từ láy nhưng thực tế nó là từ ghép bởi vì các tiếng trong từng từ có quan hệ với nhau về nghĩa, các từ này có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy nhưng không phải là từ láy. Qua khảo sát tại lớp 4D do tôi giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau: Phân loại Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Lớp SL % SL % SL % 4D (58HS) 10 17 28 48.5 20 34.5 Từ bảng phân loại khảo sát trên cho thấy trình độ học sinh chưa hoàn thành còn nhiều, cần nhiều sự quan tâm giúp đỡ của thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy. Qua giảng dạy, tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. 4. Sơ lược một số dạng bài tập Luyện từ và câu điển hình. + Phân tích cấu tạo của tiếng. + Tìm các từ ngữ nói về chủ đề. 5/20
- + Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao. + Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp. + Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được + Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó. + Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn. + Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó. + Viết thêm trạng ngữ cho câu B. Đề ra các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy các Dạng bài tập “ Luyện từ và câu”. I. Biện pháp 1: Củng cố, nâng cao kiến thức kỹ năng làm các bài tập luyện từ và câu. Với đặc trưng của môn Luyện từ và câu cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau. 1. Đọc thật kỹ đề bài. 2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 4. Kiểm tra đánh giá. Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh. Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn Luyện từ và câu cần cung cấp. - Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được: - Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ. - Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từng học sinh được: Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề 6/20
- trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được: Có 2 cách để tạo từ phức: 1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép. 2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy. - Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý: + Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho. + Thêm vào các từ rất, quá, lắm vào trước hoặc sau tính từ. + Tạo ra phép so sánh. Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp. Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện: 1. Thái độ khen, chê. 2. Sự khẳng định, phủ định 3. Yêu cầu, mong muốn - Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự. Câu hỏi: 1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi. 2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Câu khiến: 1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự 2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp 3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. II. Biện pháp 2: Tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập luyện từ và câu. Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ. Ví dụ: Tìm các từ ngữ: - Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại. - Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương. - Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại. - Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ. Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu 7/20
- học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng. Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy. Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây. - Ngay - Thẳng - Thật Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp tư duy để thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật). Từ Từ láy Từ ghép Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, ngay ngắn Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng tắp Thật Thật thà Sự thật, thẳng thật Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân. * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép: Giáo viên chốt: Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ: + Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa + Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao? 8/20
- Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung. Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép suy luận để học sinh áp dụng vào bài của mình. Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau: Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt Nhà vua: Để làm gì ? Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước. Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp. Lưu ý có 2 từ dùi từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra. Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau: Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên. Hoa cà phê thơm lắm em ơi Hoa cùng một điệu với hoa nhài Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng. Như miệng em cười đâu đây thôi Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh; các em đã hiểu . Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạch chân cụ thể: Hoà cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp tư duy): Thơm – lắm Trong – ngà Trắng – ngọc Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này. d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để 9/20
- học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu. 1. Câu kể. Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để: a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về. b) Tả chiếc bút em đang dùng. c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn. d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt. Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung. Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui Giáo viên hướng dẫn mẫu: + Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật + Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào? + Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt. Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào? a) Cho mượn cái bút! b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút! c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không? Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp. Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự. 2. Câu hỏi: Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể: Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao? Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu. - Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi: - Chắc là cụ bị ốm. - Hay là cụ đánh mất cái gì? 10/20
- - Chúng mình thử hỏi xem đi? Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không? Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh. Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ? - Chắc là cụ bị ốm. - Hay cụ đánh mất cái gì? Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không? Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể. Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài tập trên ở ngoài thực tế. 3. Câu khiến - Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm: - Chuyển các câu kể thành câu khiến. - Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống. - Đặt câu khiến theo yêu cầu có hãy trước động từ đi hoặc nào sau động từ Xin hoặc mong trước chủ ngữ - Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên. Ví dụ : Chuyển các câu kể thành câu khiến - Nam đi học - Thanh đi lao động - Ngân chăm chỉ - Giang phấn đấu học giỏi. Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học! - Nam phải đi học! - Nam hãy đi học! 11/20
- Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm các từ đi, phải, hãy ứng với lời yêu cầu ở mức nặng - nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu. - Nam đi học đi ! (yêu cầu nhẹ nhàng) - Nam phải đi học! ( yêu cầu bắt buộc) - Nam hãy đi học đi! ( yêu cầu mang tính ra lệnh) Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét. Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ và cuối câu dùng dấu chấm than (!). 4. Câu cảm: (câu cảm thán) Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên ) của người nói. Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!). Ví dụ : Đặt câu cảm cho các tình huống sau: a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự thán phục. b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng. Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung. a. Ôi, bạn giỏi quá! b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn! Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cảm nhận để các bạn nhận xét. d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu. Dạng bài tập: - Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu. Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu: a , em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình b , em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu. c , hoa đã nở. 12/20
- Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu? Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản. Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc. Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống: a) , xã em vừa đào một con mương. b) , chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt. c) , em phải năng tập thể dục. Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì? Quyết tâm tốt để dành được gì? Tập thể dục có lợi gì? Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập: Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau - Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ. - Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng. Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ “bằng, với và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì? Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?. Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận. Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. 13/20
- Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu.” Trải qua một học kỳ ôn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4 do tôi chủ nhiệm. III. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập để giúp học sinh làm các bài tập Luyện từ và câu. Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể được rèn luyện thể lực, các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm, trong tổ. Bước vào trường, trẻ làm quen với hoạt động học tập, một loạt hoạt động được chương trình hóa với những yêu cầu chính rất cao. Vậy nếu sử dụng hình thức trong trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở lên thoải mái, dễ chịu, tiếp thu bài của HS tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Mục đích của trò chơi học tập: không chỉ nhằm giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh. Nội dung trò chơi học tập gắn với tri thức và kĩ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức kĩ năng nào đó. Vậy khi sáng tạo trò chơi học tập giáo viên cần dựa vào kiến thức kĩ năng của phân môn, môn học cần củng cố để xây dựng trò chơi. Luật chơi: Trò chơi học tập có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho huấn luyện. Ví dụ: Thi Ai nhanh ai đúng Trò chơi: Tiếp sức Trò chơi: Đi tìm đồng đội Trò chơi: Truyền điện 1. Trò chơi: Ai nhanh ai đúng Trong một thời gian cố định, 2 đội (5 đến 6 người) thi tìm nhanh từ phù hợp với chủ điểm, nội dung cho trước. Sau đó kiểm tra: Giáo viên, học sinh làm trọng tài. 2. Trò chơi: Tiếp sức - Tìm từ, điền từ 14/20
- Diễn ra 2 nhóm, khi có hiệu lệnh xuất phát, từng em lần lượt thay nhau lên bảng tìm từ, điền từ. Sau đó kiểm tra, đội nào làm đúng, tìm nhiều từ là thắng. Ví dụ: Thi tìm nhanh từ chỉ đặc điểm. 3. Trò chơi: Truyền điện Hai đội (5 người/1 đội), (2 đội) cùng tham gia. Đội 1 nêu 1 từ chỉ sự vật, đội 2 nêu 1 từ khác chỉ đặc điểm của sự vật đó. Nếu đúng được đố ngược lại. 4. Trò chơi: Đi tìm đồng đội Một, hai học sinh cầm chủ điểm. Số học sinh còn lại cầm bảng ghi từ. Sau hiệu lệnh 2 phút các từ tìm về đúng chủ điểm của mình. Kiểm tra nhận xét. C. Kết quả nghiên cứu đạt được. Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau: - Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. - Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ động. - Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên. - Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài. - Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình. - Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận phân môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình. Sau khi tôi áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau: Phân loại Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Lớp SL % SL % SL % 4D (58HS) 30 52 22 38 6 10 15/20
- Kết quả cho thấy: Khi tôi áp dụng những kinh nghiệm trong đề tài vào giảng dạy thì kết quả thu được khả quan hơn, khả năng vận dụng kiến thức của học sinh có tiến bộ hơn, số học sinh chưa hoàn thành đã giảm đi rõ rệt. Nhờ áp dụng các biện pháp trên, trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận dụng từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Đến cuối năm, các em đã tiến bộ, hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm mở rộng hơn, biết giải nghĩa từ, biết vận dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh, biết phát hiện câu viết chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài văn hay. - Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình. D. Bài học kinh nghiệm. Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý: - Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em. - Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy. - Lưu ý chương trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải. - Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh. 16/20
- - Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau: + Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập. + Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy. - Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh. 17/20
- TRƯỜNG TIỂU HỌC TRUNG TỰ Lớp: 4D Giáo viên: Phí Thị Hồng Huệ Ngày dạy: 18/10/2018 KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY Phân môn: Luyện từ và câu Mở rộng vốn từ: Ước mơ I. MỤC TIÊU: 1. Kiến thức: - Mở rộng vốn từ về thuộc chủ điểm: Trên đôi cánh ước mơ. - Hiểu được nghĩa của các từ thuộc chủ điểm. - Vận dụng tốt từ ngữ thuộc chủ điểm trong nói và viết. 2. Kĩ năng: - Rèn HS có kĩ năng tìm từ đặt câu. - Rèn kĩ năng phân tích, trình bày, thảo luận nhóm cho HS. 3. Thái độ: - HS yêu thích môn Tiếng Việt, tích cực tham gia các hoạt động học tập. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC 1. Giáo viên: - Giáo án điện tử. - Phiếu thảo luận nhóm. 2. Học sinh: SGK, vở Tiếng Việt. III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC CHỦ YẾU: Hoạt động Hoạt động TG Nội dung của giáo viên của học sinh 1’ I. Ổn định tổ chức - GV kiểm tra việc chuẩn bị bài học. - Lớp trưởng trả lời 30-36’ II. Bài mới - GV giới thiệu bài, ghi bảng. - GV giới thiệu các yêu cầu chính trong tiết học hôm nay. 6’ Bài tập 1: - GV gọi 1 bạn đọc yêu cầu - 1HS đọc. BT1 * Mục tiêu: Tìm từ đồng - GV cho HS đọc bài tập đọc. - 1HS đọc. nghĩa với từ “Ước mơ”. - GV hỏi nội dung bài tập đọc. - HS trả lời. ? Nêu lại nghĩa của từ “ước - HS nêu. mơ” cho cô. - GV gọi HS nhắc lại thế nào là - HS trả lời. từ cùng nghĩa. - GV cho HS thảo luận nhóm - HS thảo luận đôi để làm bài tập 1. nhóm đôi. - GV gọi các nhóm trả lời. - Các nhóm trả lời 18/20
- - GV kết luận, chốt đáp án. ? Con hiểu “mơ tưởng” nghĩa - HS trả lời. là gì? ? Theo anh bộ đội các em thiếu - HS trả lời. nhi có quyền mơ tưởng điều gì? ? Thế nào là “mong ước”? - HS trả lời. ? 3 từ này có nét nghĩa nào - HS trả lời. giống nhau? * GV chốt kiến thức ở bài 1. - Chuyển ý, giới thiệu bài tập 2. 8’ Bài tập 2: - GV gọi 1HS đọc yêu cầu bài - 1HS đọc tập 2. * Mục tiêu: Mở rộng tìm ? Bài tập 2 có mấy phần? - HS trả lời. thêm các từ cùng nghĩa với từ “Ước mơ” - GV giới thiệu tiếp về sơ đồ tư duy. - GV cho HS thảo luận nhóm. - HS thảo luận nhóm - GV chốt các đáp án đúng. - HS lắng nghe. ? Các từ vừa tìm được ở bài tập 1 - HS trả lời và 2 là từ ghép hay từ láy? Vì sao? - GV chốt, chuyển ý sang bài tập 3 8’ Bài tập 3: * Mục tiêu: Ghép đúng các - GV mời một bạn đọc yêu cầu - HS đọc cụm từ sau từ “Ước mơ” để bài tập 3. thể hiện sự đánh giá. - GV đưa thêm sơ đồ tư duy của nhánh 2. - Bài tập lưu ý gì về vị trí của - HS trả lời. từ thể hiện sự đánh giá. - GV cho HS đọc các cụm từ - 2HS đọc. ghép được. - GV gắn 8 thẻ ghi 8 cụm từ lên bảng. - GV giúp HS hiểu nghĩa một - HS lắng nghe số cụm từ bằng cách hỏi đáp. và trả lời. - GV cho HS làm bài vào vở. 19/20
- - GV cho HS hiểu rõ hơn cách đánh giá các ước mơ bằng cách đưa các câu hỏi gợi mở. * GV chốt, chuyển ý sang bài tập 4 7’ Bài tập 4 - GV mời một bạn đọc yêu cầu - HS đọc. bài tập 4. * Mục tiêu: Nêu ví dụ - GV đưa nhánh 3 của sơ đồ tư minh họa về một loại ước duy. mơ. - GV cho HS làm bài 4 bằng - HS tham gia cách cho một HS đóng vai phóng viên để các bạn cùng tham gia thảo luận nói lên ước mơ của mình và đưa ra các đánh giá, nhận xét. - GV có thể bổ sung, nhận xét thêm cho HS. * GV chốt, chuyển ý sang bài tập 5. 7’ Bài tập 5 - GV gọi HS đọc yêu cầu bài. - 1HS đọc * Mục tiêu: Tìm hiểu các - GV đưa nhánh 4 của sơ đồ tư thành ngữ. duy. - GV cho HS chơi trò chơi - HS chơi. “Ngôi nhà ước mơ” - GV có thể hỏi thêm về ý - HS trả lời nghĩa các thành ngữ và cách sử dụng. 2-4’ III. Củng cố, dặn dò - Nếu còn thời gian GV có thể - HS xem và nêu cho HS xem một đoạn phim nói cảm nghĩ của về một bạn nhỏ có một ước mơ mình. thật đẹp. - GV kết thúc bài học. - GV dặn dò bài sau. IV. RÚT KINH NGHIỆM BỔ SUNG: 20/20
- PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Việc dạy các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 là vấn đề hết sức nan giải vì thời gian có hạn và năng lực trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên tôi mới chỉ nghiên cứu được tìm ra phương pháp tổ chức một giờ dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Phần nghiên cứu có thể chưa sâu, chưa sát, tôi thiết nghĩ nếu chỉ nghiên cứu trong phạm vi của đề tài này thì chưa đủ vì thế trong tương lai nếu có điều kiện tiếp tục nghiên cứu, tôi hứa sẽ nghiên cứu hoàn thiện hơn. - Đề tài này chỉ có thể áp dụng, vận dụng trong phạm vi ở tiết “Luyện từ và câu” của học sinh lớp 4. I. Những hạn chế: Nếu không được giáo viên gợi mở, đề ra phương pháp tổ chức cụ thể cho từng dạng bài thì học sinh sẽ rất ngại học môn này và không hiểu bản chất của các bài tập cần khai thác cái gì. Các học sinh lớp 4 tầm nhận thức còn hạn chế, thời gian dành cho tiết bài tập còn ít nên việc rèn cho học sinh có kĩ năng kĩ xảo còn chưa đầy đủ và hệ thống. II. Kiến nghị. Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy: * Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình - nhà trường xã hội. * Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh. + Giáo viên cần nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh. + Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài. + Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi. + Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh. * Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. + Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn. 21/20
- + Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. + Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm và vì điều kiện thời gian có hạn nên trong đề tài này tôi mới đi sâu tìm hiểu một số dạng bài tập luyện từ và câu cụ thể nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học. Chắc chắn đề tài sẽ còn một số khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp để chúng ta có hướng giải quyết tiếp theo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Tôi xin chân thành cảm ơn. XÁC NHẬN CỦA Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2019 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ NGƯỜI THỰC HIỆN Phí Thị Hồng Huệ 22/20
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Hữu Tỉnh (Chủ biên), Xuân Thị Nguyệt Hà, Dương Thị Hương, Rèn kĩ năng cảm thụ văn học qua các bài tập đọc lớp 4, NXB Giáo dục. 2. Ngô Lê Hương Giang, Trần Thảo Linh, Kiến thức cơ bản và nâng cao Tiếng Việt 4, (tập 1 + 2), NXB Đà Nẵng. 3. Ngô Trần Ái, Nguyễn Qúy Thao, Để học tốt Tiếng Việt 4 (tập 1, 2), NXB Giáo Dục và Thời đại. 4. Phạm Văn Công, 10 chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn, Tiếng Việt 4, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 (tập 2), NXB Giáo dục. 6. Sách Tiếng Việt lớp 4 (tập 1+ 2). 7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 4 (tập 1), NXB Giáo dục. 8. Tham khảo một số bài, kinh nghiệm của các đồng nghiệp. 23/20