Sáng kiến kinh nghiệm Rèn viết câu đúng câu hay

doc 8 trang thienle22 3320
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn viết câu đúng câu hay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_viet_cau_dung_cau_hay.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn viết câu đúng câu hay

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Tên đề tài: Rèn viết câu đúng câu hay. Người thực hiện : Đỗ Thị Nhung. Trường: Tiểu học Cát Linh - Đống Đa - Hà Nội Hà Nội 1999 - 2000 I-Lý do chọn đề tài: Tôi chọn cho mình đề tài về việc “Rèn viết câu đúng, câu hay cho học sinh” bởi vì tôi nhận thấy đối với người Việt Nam, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học của tôi thì các kỹ năng ngôn ngữ nhằm giúp các em sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp là rất quan trọng. Ngoài ra các em vốn hiểu biết và vốn sống còn ít nên các em sử dụng ngữ pháp tiếng Việt rất hạn chế. Các em học sinh đa phần viết câu còn què, cụt, chưa đủ nghĩ nghĩa và nội dung thông báo. Đôi khi các em viết câu đủ cấu trúc ngữ pháp nhưng lại sai biệt hoàn toàn về nghĩa của câu. Việc xác định các từ loại Tiếng Việt đối với các em hầu như rất mơ hồ, theo định tính, các em thích nó là từ loại nào thì cho là từ loại đó. Nhưng có một điều rất sâu để tôi chọn đề tài này là do bản thân các em cũng biết mình còn hạn chế về kiến thức ngữ pháp nên rất ham tìm hiểu, học hỏi, buộc một cô giáo như tôi thấy mình phải có trách nhiệm tìm tòi học hỏi để dạy cho các em sao cho đúng và sâu về kiến thức ngữ pháp. Tôi đã đề ra một số biện pháp sau. II- biện pháp thực hiện: 1/ Tôi đã nghiên cứu kĩ sách giáo khoa Tiếng Việt phân môn ngữ pháp từ lớp 1 đến lớp 5 để nắm rõ được các ưu điểm và hạn chế của chương trình trong sách. Tôi nhận thấy chương trình và các tài liệu dạy học ngữ pháp ở tiểu học hướng đến thực hành và có tính đồng tâm. Chương trình ngữ pháp đã đã hướng đến yêu cầu rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh qua hoạt động đội, nghe, nói, viết thực hiện mục tiêu của môn học, làm cho học sinh hiểu và sử dụng tốt phương tiện tư duy và giao tiếp của loài người. Chương trình ngữ pháp, tiểu học đã xác định rất rõ hai mặt quan trọng của dạy học ngữ pháp và rèn luyện các kỹ năng sư dụng các đơn vị ngữ pháp. Đó là chương trình ngữ pháp hướng tới thực hành là chủ yếu. 2- Tôi thống kê trong các bài kiểm tra , trong vở tiếng Việt của học sinh nhiều lớp các số lỗi về ngữ pháp mà học sinh hay mắc phải để dễ dàng củng cố sâu hơn cho các em sửa những lỗi đó.
  2. Tôi thấy các em còn sai khi nhận diện từ, phân cách các đơn vị từ, việc nắm cá khái niệm câu, thành phần câu và kĩ năng nhận diện, phân tích các thành phần câu, nhận diện, phân loại từ theo cấu tạo, đặc biệt các em sử dụng dấu câu còn rất lung tung, không đúng yêu cầu của câu, khi viết các đoạn văn đôi khi không có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu Còn rất nhiều số lỗi khác nhau mà trong khuôn khổ hạn hẹp này tôi không thể thống kê ra hết. Chính vì vậy khi dạy từng bài ngữ pháp đối với học sinh lớp 4 của tôi là lớp mà kiến thức ngữ pháp được tổng hợp lại tương đối đầy đủ tôi đã chú trọng thay đổi một số điểm. 3- Những biện pháp sáng tạo khi dạy: a- Tôi sử dụng trực quan khi dạy trong giờ ngữ pháp . Trực quan ở đây không chỉ là các vật thật, vật thay thế như tranh ảnh, mô hình, sơ đồ, biểu bảng mà còn là trực quan lời nói. Tôi cố gắng rèn luyện bản thân mình cách nói sao cho đúng ngữ pháp, từ dùng sao cho chuẩn. Ngoài ra khi đưa ra các ví dụ mẫu tôi chọn và suy nghĩ kĩ để có được một ví dụ tương đối chuẩn xác, giúp học sinh dẽ phát hiện rút ra bài học. Ví dụ với bài “câu và từ” (Tiết 2-Ngữ pháp 4) Tôi nhận thấy ví dụ của sách giáo khoa: “Đêm nay, anh đứng gác ở trại” Học sinh cần phải phân tích câu này thành các từ trong đó câu có từ “đêm nay”, “đứng gác” theo SGK thì phân tích thành từng từ đơn: Đêm/nay, đứng/gác Nhưng bản thân các từ này các nhà Việt ngữ học còn đang tranh luận chưa thống nhất là một từ hay hai từ nên tôi đã không lấy ví dụ học sinh dễ nắm bắt hơn: “Trời/ nắng/ chang chang” Trong ví dụ này tôi yêu cầu học sinh chia câu “Trời nắng chang chang” thành các phần có nghĩa sao cho được nhiều phần nhất. Học sinh của tôi đã chia câu thành: Trời nắng/ chang chang. Trời/ nắng/ chang/ chang. Trời/ nắng/ chang chang. Tôi yêu cầu các em suy nghĩ kĩ là “chia nhiều phần nhất” nhưng phải có “nghĩa”, từ đó học sinh tôi đã biết lược bỏ rút ra trường hợp: “Trời/ nắng/ chang chang” Từ đó các em tự rút ra cho bản thân “từ làa đơn vị nhỏ nhất” có nghĩa dùng để đặt câu “ví dụ bài động từ” (tiết 23 - ngữ pháp 4) Tôi nhận thấy qua nhiều năm các em thắc mắc là từ “xem” trong ví dụ “Nam xem đá bóng” tại sao lại là động từ nội động? vì Nam “xem” tức là Nam đã có tác động đến đối tượng khác, bắt buộc phải có đối tượng Nam mới “xem” được. Tôi thấy việc giải thích thật khó vì các em thắc mắc hoàn toàn hợp lí, nên tôi thay thế câu “Nam xem đá bóng” bằng câu: “Bạn Nam đang bơi”
  3. b- Ngoài việc sử dụng trực quan tôi còn cho các em phát hiện khi đang trao đổi một ví dụ câu xem đó đã là câu hay chưa? Câu đó có dấu hiệu mở đầu ra sao? dấu hiệu kết thúc câu thế nào? Việc thực hành trong giao tiếp hàng ngày như vậy giúp các em nói, viết câu đúng, ngữ pháp, rõ nghĩa, phát hiện nhanh xem mình dùng câu sai hay đúng. Việc phát hiện thực hành tôi sử dụng không chỉ trong giờ ngữ pháp mà còn dùng trong bất cự lúc nào để giúp các em ứng dụng ngữ pháp trong giao tiếp. c- Để học sinh viết được câu đúng, câu hay trước tiên tôi cho học sinh nắm kĩ các câu đơn giản nhất. Tôi trao đổi bàn bạc nhiều lần với các em xem câu phải có mấy bộ phận chính? (2: chủ ngữ và vị ngữ) Chủ ngữ là bộ phận chính thứ mấy? trả lời cho câu hỏi nào?vị ngữ là bộ phận chính thứ mấy? trả lời cho câu hỏi nào? Không chỉ nắm vững lí thuyết tôi còn cho các em thực hành nhiều lần luyện tập viết câu, phân tích câu. Ví dụ trong khi học sinh có một từ ngữ nào đó cần nắm trong bài “tập đọc” tôi cho các em đặt ngay câu với từ đó rồi phân tích bộ phận chủ ngữ, vị ngữ của câu, học sinh khác nhận xét. Hoặc cho các em đặt câu theo cấu trúc tôi cho các em làm: - Đặt câu có một chủ ngữ, một vị ngữ. - Đặt câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ. Học sinh đã có thể đặt được các câu: - Những chú gà trống/ đang gáy báo sáng. - Hoa mai và hoa đào/ là chị em. - Bạn Lan lớp em/ đang học bài và làm bài. Hoặc tôi đưa ra nhiều câu đơn ngắn gộp lại thành một câu có chung chủ ngữ hoặc vị ngữ. Ví dụ: Bạn Nam rất hiền. Bạn Nam rất ngoan. Tôi hỏi các em:Bạn Nam thế nào? (hiền, ngoan) Có thể ghép 2 câu làm một: Chủ ngữ vẫn là “Bạn Nam” nhưng có hai đặc điểm, dùng từ nối “và” nối hai đặc điểm lại. Ví dụ: Bạn Nam rất hiền và ngoan. +Để câu văn viết được hay hơn, tôi cho các em bổ xung thêm trạng ngữ. Tôi cho câu đơn giản có đủ chủ ngữ, vị ngữ yêu cầu các em bổ xung thành phần chỉ thời gian, nguyên nhân, nơi chốn, mục đích Để học sinh nắm chắc hơn về câu có bộ phận phụ, tôi còn cho các em câu văn có đủ cả trạng ngữ và chủ ngữ, vị ngữ sau đó yêu cầu các em lược bỏ bớt trạng ngữ và so sánh câu đã lược bỏ với câu ban đầu. Qua việc so sánh như
  4. vậy các em thấy rõ được hơn trạng ngữ chỉ là bộ phận phụ của câu nhưng khi có trạng ngữ thì câu văn sẽ hay hơn. Ví dụ: Ngoài vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt. Khác câu: Khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt. Khi có thêm trạng ngữ “ngoài vườn” câu rõ hơn, khóm hồng toả hương thơm từ đâu. Hoặc câu: Hôm nay, lúc 7 giờ sáng, tôi đi học. So với câu: Tôi đi học khi có trạng ngữ câu rõ hơn “Tôi đi học” từ lúc nào +Học sinh phân tích từng câu để xác định rõ bộ phận chủ ngữ và vị ngữ. Tôi cho các em phân tích từng câu, từ đơn giản như: Con mèo đang trèo cây cau. Một em đặt câu hỏi tìm chủ ngữ: Con gì đang trèo câu cau? (Con mèo). Một em đặt câu hỏi tìm vị ngữ: Con mèo đang làm gì? (đang trèo cay cau). Khi trả lời về bộ phận chủ ngữ hoặc vị ngữ tôi yêu cầu các em chỉ trả lời những từ ngữ bộ phận đang tìm, không trả lời theo cả câu. Ví dụ không trả lời câu tìm vị ngữ là: “Con mèo làm gì?” (Con mèo đang trèo cây cau). Trả lời như vậy chưa tách bạch được rõ chủ ngữ và chủ ngữ. Các em sẽ dần phân tích những câu phức tạp hơn. Ví dụ: Con mèo là bạn của Lan/ đang nằm dài phơi nắng. Khi đặt câu hỏi tìm vị ngữ “Con gì đang nằm dài phơi nắng?” học sinh dễ lẫn lộn chỉ trả lời “Con mèo” là chủ ngữ. Đến đây ta càn đặt ngược lại con mèo làm gì “đang nằm dài phơi nắng” là vị ngữ còn “của bạn Lan” là từ ngữ thuộc chủ ngữ hay vị ngữ? Học sinh cần suy nghĩ thấy “của bạn Lan” gắn với chủ ngữ “con mèo” của ai? (của bạn Lan) bởi vì hành động của con mèo là “đang nằm dài phơi nắng”. Ví dụ: Con mèo nhảy/ làm đổ lọ hoa. Việc phân tích câu giúp các em nắm rõ được cách đặt câu sao cho chuẩn bao gồm đủ nội dung thông báo. d- Để các em biết xác định và viết câu cho đúng tôi cho các em xác định nhiều dòng xem dòng nào là câu, dòng nào chưa là câu, nếu chưa là câutự học sinh cần bổ xung cho thành câu. Việc học sinh bổ xung cho thành câu và xác định xem một câu dã hoàn chỉnh giúp học sinh củng cố sâu hơn về kiến thức ngữ pháp về câu. Khi cho các dòng đã là câu tôi thường cho các em nắm bắt các câu đơn giản ngắn gọn nhưng những câu đó đều do các từ có hình ảnh, gợi tả. Ví dụ: Trăng nằm lơ lửng trên đầu ngọn tre, in đậm trên bầu trời sao. ánh trăng chiếu chênh chếch vào hiên nhà.
  5. Với những dòng chưa là câu tôi gợi ý các em bổ sung cho thành câu sao cho từ ngữ bổ sung là từ ngữ hay và hợp lí nhất. Ví dụ: Trên mặt biển Dòng này chưa là câu, tôi gợi ý cho các em phát hiện “trên mặt biển” thường có những gì? Từ đó đã có em đặt câu: “Trên mặt biển mênh mông, từng đoàn thuyền với những cánh buồm trắng đang lướt sóng ra khơi” e- Các em cũng từ việc nắm rõ lí thuyết đơn (đối với lớp 4). Tôi cho các em tập đặt câu theo mô hình mà giáo viên cho trước. Các mô hình câu sẽ từ đơn giản như mô hình: Đặt câu theo mô hình C-V (Câu một chủ, một vị) đến các mô hình phức tạp hơn như: C-V-V; CCCV; CCVV; T,T,CV; T,C,TV. Việc đặt câu theo mô hình rõ ràng như vậy khiến các em dễ dàng đặt câu đúng. Với mỗi mô hình bao giờ tôi cũng cho các em xem xét 1 ví dụ mẫu để các em có biểu tượng về từng câu theo mô hình, sau đó tôi yêu cầu các em đặt câu đúng trước (đối với đại trà đa số em), với những em đặt câu đúng rồi tôi cho các em tìm ra các từ ngữ hay để các em đặt câu sao cho hay hơn. g- Để dần hướng các em tới các câu văn đúng và hay, gợi hình ảnh tôi đã đưa ra cho các em nhiều nhóm từ ngữ khác nhau yêu cầu các em sắp xếp thành các câu khác nhau sao cho có nghĩa, ngoài việc có nghĩa còn hay, đủ các bộ phận chính, còn có thể có bộ phận phụ. Ví dụ tôi đưa ra các nhóm từ: Phương/ lững thững/ đi /trên đường Học sinh của tôi đã sắp xếp được nhiều câu văn hay sau: - Trên đường, Phương đi lững thững. - Lững thững, Phương đi trên đường. - Lững thững, trên đường, Phương đi. - Phương đi trên đường lững thững. Các em tự đặt câu, còn tôi thực hiện cách là đưa ra một loạt số câu khác nhau đều do một số từ ngữ tạo thành cho các em nhận xết xem câu nào là câu hay nhất, câu nào em thích nhất để các em lựa chọn. Việc lựa chọn đã giúp các em học sinh của tôi biết xác định một cách từ giác câu hay và đúng nhất. Tôi đã áp dụng việc dạy dạng bài “trạng ngữ’ (tiết thứ hai) tôi đã đưa ra 5 nhóm từ: “lúc tảng sáng”, ở quãng đường này, qua lại nhộn nhịp, dân làng, trập cập tối” Các nhóm từ này trong vở bài tập tiếng Việt đã có nhưng chỉ yêu cầu có trạng ngữ ở đầu câu, tôi không áp đặt các em mà để tự các em sắp xếp sao cho hợp lí nhất theo ý kiến của các em.
  6. Có em đã đặt cả trạng ngữ giữa câu, ở cuối câu khiến các câu văn của các em đã đa dạng, hay hơn.Từ đó cũng giúp các em nắm kiến thức có trạng ngữ đặt giữa câu để khi các em viết văn có thể sử dụng làm cho câu viết sáng tạo, nhấn mạnh được ý cần nêu. h- Tôi đã cho các em học sinh lớp 4 của tôi ngay từ đầu năm học đã tập mở rộng các câu đơn giản. Từ đầu năm các em chưa học lí thuyết về định ngữ, bổ ngữ nên tôi cho các em phân định rõ chủ ngữ và vị ngữ và mở rộng riêng chủ ngữ, riêng vị ngữ. mở rộng ở phần bổ sung cho cả chủ ngữ và vị ngữ (trạng ngữ). Việc mở rộng như vậy làm cho bản thân câu văn hay hơn. Ví dụ câu: “Mặt trời/ mọc” Học sinh đã mở rộng : Mặt trời/ đang mọc sau luỹ tre làng. Hoặc: Mặt trời/ đang từ từ mọc lên từ phía biển làm cho những đợt sóng cũng pha màu hồng nhạt. i- Để cho học sinh không bị sai khi đặt câu, đặc biệt giúp các em viêté văn ngoài tiết chữa bài ở phân môn tập làm văn, tôi còn đưa ra cho các em sửa câu trong giờ ngữ pháp với những câu rườm rà, câu tối nghĩa. Những câu đưa ra là điển hình, gắn nhiều với thực tế khiến các em dễ dàng phát hiện ra cái sai và sửa nhanh chóng, từ đó khi viết văn các em sẽ ít khi mắc lỗi như vậy nữa. Ví dụ cho câu: Trong vườn nhà em có một cây to là cây mít rất to. Học sinh nghe xong câu này thấy rõ ngay là câu rất rườm rà và buồn cười. Các em lập tức sửa được ngay “trong vườn nhà em có một cây mít rất to” Hoặc câu viết sau rất tối nghĩa: “Em rất thích con lợn vì ta có thức ăn hàng ngày”, câu này sửa tương đối khó, tôi phải gợi ý các em xem nuôi lợn thì cho ta những ích lợi gì? Từ đó giúp các em sửa: “Em tích nuôi lợn vì nó cung cấp thức ăn cho ta”. Có những câu các em đặt sai ý mà hoàn toàn không biết, khi đưa ra trước lớp cùng bàn bạc các em đã nhận biết ngay ra điều sai trong câu để sửa. Ví dụ câu: “ Em bé ấy gầy quá đến nỗi xương sườn trồi ra ngoài da”. Làm sao xương sườn trồi ra ngoài ra được? Tôi cho các em quan sát chỉ thực tế xem xương sườn ở đâu từ đó các em sửa : “Em bé đó gầy quá, có thể đếm được từng chiếc xương sườn trên bộ ngực lép kẹp” k- Một hôm khi đặt câu có từ “đẹp” một học sinh đã nêu lên câu “Trời hôm nay đẹp”. Suuy nghĩ một lúc, một học sinh khá trong lớp đã xung phong đứng lên và nói “Em có thể dựa vào câu của bạn đặt một câu cũng có từ đẹp nhưng khác đi được không” và em đặt câu “ Bầu trời hôm nay đẹp lắm, trong vắt không một gợn mây” Từ việc em nêu câu đó tôi nghĩ ra tại sao mình không đưa ra dạng bài luyện câu cho các em là: Cho một câu đơn giản, yêu cầu các em diễn đạt theo nhiều cách khác nhau. Câu trường em học xây ở ngay cạnh đường.
  7. Học sinh diễn đạt được: - Bước tới đầu con đường, ai cũng thấy một ngôi nhà sừng sững trên khu đất rộng, đó là trường của em. - Trường em xây trên một khu đất vuông gần ngay cạnh đường. - Khu nhà đổ mái bằng sừng sững ngay cạnh đường, đó là trường em. - Bước tới đầu đường, ngay trên khu đất rộng, trường của em trông như một đoàn tầu nhiều con, mỗi toa là một lớp học. Từ việc diễn đạt những câu hay giúp các em viết văn tả ngôi trường rất sinh động. l- Để câu văn của học sinh ngày càng hay, sinh động, tôi dần cho các em làm quen với các biện pháp nghệ thuật, tập đặt câu văn có các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, đảo ngữ) Ví dụ khi đặt câu tả cây cối, một học sinh đặt: “Cây bàng ở trước trường có cành lá xum xê” Tôi yêu cầu các em quan sát kĩ cây bàng cành là sum sê ở một bức tranh và nêu lên nhận xét gốc cây bàng to như thế nào? tán lá sum sê rộng trông giống gì? học sinh nêu lên so sánh: gốc cây bàng to như cột đình, cành lá sum sê như một cái lọng khổng lồ Từ đó đặt ra câu: “Cây bàng ở trước trường gốc to như cột đình, cành lá sum sê như một cái lọng khổng lồ” Hoặc với việc tập dùng lối nhân hoá học sinh sẽ sửa lại các câu cho hợp lí. Ví dụ: Mấy con chim hót ríu rít trong bụi cây. Tôi gợi ý cho các em thấy khi “chim hót” nhân cách hoá lên sẽ là “chim trò chuyện” từ đó có câu: “Mấy chú chim đang ríu rít trò chuyện trong bụi cây” Hoặc để nhấn mạnh ý, câu viết sinh động tôi yêu cầu học sinh đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ. Ví dụ: Tháng năm, tháng sáu, hoa phượng nở rộ đỏ rực hai bên bờ. Học sinh đảo thành: Đỏ rực hai bên bờ, tháng năm, tháng sáu hoa phượng nở rộ. m- Mặc dù viết được câu đúng, câu hay nhưng có một số lỗi rất nhỏ mà đôi khi giáo viên chúng tôi cũng sơ xuất không để ý, đó là dấu câu. Tôi thấy học sinh rất hay quên dấu chấm câu, dấu chấm cảm, đặc biệt là dấu chấm.
  8. Để khắc phục tình trạng này tôi đã đưa ra nhiều đoạn văn yêu cầu học sinh ngắt thành các câu đơn, chép lại đoạn văn và điền đủ các loại dấu câu hoặc đưa ra các bài tập mà việc điền dấu câu sai hoặc thiếu dấu câu, yêu cầu học sinh phát hiện thật tinh để điền cho đúng. Còn một dạng nữa là tôi đưa ra cho học sinh một dấu câu nào đó, yêu cầu học sinh đặt câu có dấu đó. Học sinh đã đặt các câu với dấu câu đúng nhưng vẫn có tình trạng học sinh quên đặt dấu khi viết câu. III- Kết quả: Qua một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng về các câu văn, sử dụng câu của học sinh tôi đã phần nào được nâng cao, các em đã viết được những câu văn hay (dẫn chứng trong từng phần ở trên). Trong khi làm tập làm văn hầu như không còn có hiện tượng học sinh sai ngữ pháp khi đặt câu, trong giao tiếp hàng ngày các em nói năng đủ ý, thành câu hoàn chỉnh. Điểm văn, điểm ngữ pháp của các em cao, đa phần là điểm 7 và 8, điểm 9 và điểm 10, số điểm dưới trung bình không có. Tuy vậy vì thời gian thực hiện chưa lâu, chưa có nhiều bài văn viết nên việc viết văn của các em đôi lúc còn hạn chế. Các em khi đặt câu còn hay quên ghi dấu câu ở cuối, đặc biệt là hạn chế trong câu đối thoại. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng các kinh nghiệm này để nâng cao khả năng sử dụng câu cho các em học sinh .