Sáng kiến kinh nghiệm Một số đặc điểm và phương pháp dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 4

doc 15 trang thienle22 3550
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số đặc điểm và phương pháp dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_dac_diem_va_phuong_phap_day_hoc.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số đặc điểm và phương pháp dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 4

  1. UBND QUẬN ĐỐNG ĐA TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 Môn: Tiếng Việt Tác giả: Đặng Huyền Anh Giáo viên: Cơ bản Năm học 2011 - 2012 1
  2. MỤC LỤC Trang Phần I: Đặt vấn đề 3 I- Cơ sở 3 II- Thực trạng ban đầu 3 Phần II: Nội dung 4 I- Một số đặc điểm và phương pháp dạy văn miêu tả 4 1- Quan sát trong văn miêu tả 4 2- Cảm xúc của người viết trong văn miêu tả 6 3- Ngôn ngữ trong văn miêu tả 6 II. Những kĩ năng cẩn rèn luyện cho học sinh khi viết văn miêu tả 8 1- Tìm hiểu đề bài 8 2- Quan sát, tìm ý, chọn ý 8 3. Sắp xếp ý 8 III- Dàn ý một số bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4 9 IV- Kết quả 9 Phần III: Kết luận và kiến nghị 10 Phần IV: Phụ lục 11 Phần V: Tài liệu tham khảo 14 2
  3. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào nhà trường từ rất lâu và ngay từ bậc Tiểu học. Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật nuôi trong nhà. Với học sinh lớp 4, chủ yếu là các em viết được một bài văn miêu tả ngắn. II. THỰC TRẠNG BAN ĐẦU: Tuy nhiên đối với học sinh Tiểu học, việc học và làm văn miêu tả còn nhiểu hạn chế. Các em mới chỉ viết được những câu văn có nội dung sơ sài, chưa có hình ảnh và giàu sức biểu cảm. Đặc biệt với học sinh lớp 4, các em chuyển từ giai đoạn viết một đoạn văn (lớp 2, 3) sang viết một bài văn nên gặp không ít những khó khăn. Trong cùng một lớp, trình độ học sinh không đồng đều. Có nhiều học sinh có khả năng quan sát, cảm thụ văn học rất tốt, nhưng cũng còn không ít học sinh khả năng diễn đạt chưa tốt. Các em cũng quan sát nhưng không biết viết ra những gì mình đã quan sát được. Đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học văn miêu tả ở học sinh lớp 4 (54 học sinh). Kết quả như sau GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU 4 7.4% 23 46.2% 19 31.5% 8 14.9 Qua bảng tổng kết trên cho thấy chất lượng học văn miêu tả của học sinh còn thấp, nhiều học sinh còn ở mức trung bình và yếu. Với ý nghĩa quan trọng của phân môn Tập làm văn và thực trạng khi dạy - học môn học ngày ở trường Tiểu học hiện nay, tôi đã lựa chọn môn Tập làm văn để nghiên cứu, thể hiện trong việc trao đổi về đặc điểm, từ đó có một số phương pháp dạy - học môn Tập làm văn ở Tiểu học. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài : Một số đặc điểm và phương pháp dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, tập làm văn, Chính tả. Trong các phân môn nói trên, có thể nói phân môn Tập làm văn có vị trí hết sức quan trọng. Dạy tốt phân môn này sẽ đáp ừng được kĩ năng viết của học sinh: viết đúng và hay. Việc học các bài văn miêu tả 3
  4. sẽ giúp các em có tâm hồn, trí tuệ phong phú hơn, giúp các em cảm nhận được sự vật xung quanh tinh tế và sâu sắc hơn. Do đó, việc hướng dẫn các em cách làm văn miêu tả có ý nghĩa to lớn. PHẦN II: NỘI DUNG I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY VĂN MIÊU TẢ Trước hết cần phải hiểu rõ miêu tả là làm cho đối tượng mà ta đã từng nghe, từng thấy như được hiện ra trước mắt người nghe, người đọc. Từ việc nắm chắc thế nào là miêu tả, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt được miêu tả trong văn chương và miêu tả trong khoa học. Ví dụ trong bài văn miêu tả con mèo, học sinh có viết: "Con mèo nhà em dài 30 cm, nặng khoảng 12 kg, chân nó dài khoảng 10 cm, lông nó màu vàng nhạt " Giáo viên cần nói rõ cho học sinh biết đây chưa phải là cách miêu tả trong văn học. Miêu tả trong văn học không cần sự chính xác, tỉ mỉ đến như vậy. Giáo viên có thể đọc cho học sinh một số đoạn văn miêu tả về con mèo để học sinh thấy được sự khác nhau đó. Ví dụ 1: Chú mèo mướp nhà em to bằng cái phích nhỡ, lông màu tro có những vằn đen. Mặt nó khá xinh. Cái mũi ngắn, lúc nào cũng ươn ướt. Đôi tai như hai chiếc lá quất non luôn vểnh lên nghe ngóng. Mắt nó xanh và tròn như hai hòn bi ve. Ví dụ 2: Chú mèo tam thể nhà em có bộ lông trắng mềm mại, điểm những đốm vàng và nâu nhạt. Cái đuôi cong lên tựa dấu hỏi như để làm duyên. Mỗi khi em học bài, chú thường nũng nịu cọ bộ ria trắng muốt như cước vào chân em. (Nguyễn Quỳnh) 1. Quan sát trong văn miêu tả: Bước đầu tiên để làm văn miêu tả là giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách quan sát. Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trò rất quan trọng. Khi quan sat không chỉ sử dụng mắt nhìn mà còn phải dùng tất cả các giác quan: xúc giác, thính giác, vị giác, Nếu không có quan sát thì vốn hiểu biết và trí tưởng tượng của học sinh rất khó phát triển. Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như với óc quan sát tinh tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại cho học sinh những cảm nhận về sự vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn, nếu học sinh chưa từng nhìn thấy cây chuối thì học sinh sẽ không thể miêu tả về cây và cũng không có ấn tượng hay nhận thức gì về cây chuối. Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng tượng dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Và muốn có sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu văn, bài văn miêu tả hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của người biết quan sát, có tài quan sát và chịu khó quan sát. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát, chúng ta sẽ có thể thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ để ý thấy. Mỗi một nhà văn muốn viết được những bài văn miêu tả 4
  5. hay cần phải có sự quan sát trải nghiệm thực tế thì mới có thể viết được lên những câu văn hay, sinh động mà mỗi khi đọc, người đọc dường như tưởng tượng ra được cả sự vật đó. Từ những hiểu biết về quan sát như vậy, khi dạy học sinh về văn miêu tả, giáo viên cần dạy các em cách quan sát. a) Quan sát: Giáo viên cần hướng dẫn các em hiểu rằng: - Quan sát bên ngoài là dùng các giác quan như: thị giác, thính giác, xúc giác mà cảm nhận và phát hiện ra xem sự vật đó có hình dáng, đường nét, màu sắc, như thế nào? Rồi phải xác định vị trí người quan sát, trình tự quan sát như từ xa đến gần hay từ ngoài vào trong. Giáo viên cần hướng cho các em làm quen và sử dụng tốt các từ ngữ có tính chất "công cụ" trong hoạt động quan sát: hình vẻ, dáng điệu - Quan sát bên trong là quan sát có so sánh, suy nghĩ và cảm xúc. b) Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng: Tưởng tượng có vai trò tích cực trong cuộc sống. Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh rực rỡ, phản ánh rõ ước mơ, lí tưởng của con người. Đối với văn miêu tả, tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà tất cả những hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều có thể được tái hiện trước mắt chúng ta. Tất cả những chi tiết đặc trưng nhất của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ, nhưng nhờ có tưởng tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó. Văn miêu tả nhằm giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc một cách sinh động, cụ thể. Vì thế, khi viết văn, người ta thường dùng liên tưởng, so sánh. Nhờ có liên tưởng, so sánh mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, óc sáng tạo của người đọc. Do đó, khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những nét giống nhau giữa các sự vật hiện tượng. Hay nói cách khác, khi quan sát, học sinh phải hình dung được trong đầu xem hình ảnh mình vừa quan sát được giống với những hình ảnh nào mà mình đã biết. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh quan sát cây bàng, giáo viên có thể đặt ra hệ thống câu hỏi giúp học sinh liên tưởng và so sánh: - Khi nhìn từ xa trông cây như thế nào? Cây cao thế nào? Dáng cây ra sao? - Rễ cây trên mặt đất trông như thế nào? Nhìn rễ cây em có liên tưởng đến hình ảnh gì? Màu sắc của lá thay đổi theo mùa như thế nào? Với hệ thống câu hỏi như trên, học sinh không những viết ra những điều mình quan sát được mà còn có thể viết ra những câu văn giàu hình ảnh. Ngoài ra, giáo viên còn có thể đọc cho học sinh nghe những đoạn văn, đoạn thơ có nhiều hình ảnh so sánh và liên tưởng hay. Ví dụ đoạn văn tả về quả cam: Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt làm sao! Mới ngày nào quả còn nhỏ xíu như trái bóng tennis, da dày và xanh lét. Vậy mà giờ đây, nhờ được uống sương mai và tắm trong nắng sớm cùng nguồn dinh dưỡng mát lành từ đất mẹ mà chúng như được thay áo mới. Trong những tán 5
  6. lá xanh mướt mỡ màng còn thấm đẫm sương đêm, lấp ló những trái cam vàng óng, với lớp da mỏng căng mượt. Mỗi lần cô gió ngang qua trêu đùa, các chú cam tinh nghịch lại cười rúc rích và khẽ đung đưa thân hình tròn lẳn của mình làm xôn xao cả vườn cam. Không chỉ đẹp mà các chú cam còn rất thơm mát nữa đấy các bạn ạ! Khi bổ cam ra, bạn sẽ thấy những tép cam vàng óng, ngọt lành. Hương cam thơm mát như mật ong lan tỏa khắp căn phòng. Chính vì vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên cần chú ý hướng dẫn các em sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa. Muốn được như vậy, giáo viên phải hướng dẫn các em quan sát thật kĩ những sự vật mà mình muốn miêu tả, từ đó các em có sự so sánh, liên tưởng xem các hình ảnh đó giống với cái gì để viết được những câu văn hay và sinh động. Dưới đây là một đoạn văn mà học sinh đã quan sát, miêu tả rất kĩ về cây đào. Trong đoạn văn này, em đã biết sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa rất sinh động và gợi cảm. Nhìn từ xa, cây đào giống như một cây nấm khổng lồ. Thân cây cao quá người em một chút. Gốc cây màu hơi nâu, xù xì. Cây có nhiều cành khẳng khiu đan vào nhau chằng chịt. Những ngày đông giá, cây đào trút sạch lá, chỉ còn trơ trụi những cành là cành trông thật buồn tẻ và tội nghiệp. Khi tiết trời ấm áp thì đào bắt đầu cựa mình trỗi dậy. Từ những cành bắt đầu xuất hiện những cái nụ nhỏ như đầu đũa. Chúng cứ thế lớn dần, lớn dần Và đến ngày giáp tết, vô số cái nụ xòe ra và bừng nở, khoe sắc dưới nắng xuân. Những bông hoa năm cánh mỏng manh như lụa, để lộ cái nhụy vàng tinh khiết ở giữa. Hoa đào đẹp một cách lộng lẫy. Nhìn ngắm hoa đào, lòng người cảm thấy dễ chịu biết bao. Có thể nói liên tưởng và tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trong trong khi viết văn miêu tả. Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rằng tưởng tượng phải dựa trên thực tế, không có nghĩa là nghĩ vu vơ và không có cơ sở thực tế. Để học sinh biết cách liên tưởng đúng, giáo viên phải giúp học sinh tập quan sát, tìm hiểu thực tế một cách có ý thức, có thói quen, có phương pháp. Từ đó các em mới có nền tảng và có cơ sở để tưởng tượng đúng. 2. Cảm xúc của người viết trong văn miêu tả: Văn miêu tả muốn hay thì không chỉ có cái tài quan sát, thể hiện bằng các từ ngữ, hình ảnh của người viết mà còn cần phải có tình cảm của người viết lồng vào đó. Nếu bài văn không có tình cảm thì dù có miêu tả phong phú và mới mẻ đến đâu thì bài văn cũng không thể gây được xúc động trong lòng người đọc. Giáo viên phải luôn chú ý, nhắc nhở các em xen lẫn tình cảm, cảm xúc của mình vào từng câu văn. 3. Ngôn ngữ trong văn miêu tả: Muốn miêu tả được đúng, được hay thì phải giàu từ ngữ. Dù cho sự vật chúng ta cần miêu tả có ở ngay trước mắt nhưng để viết được và miêu tả được nó không phải là dễ. Viết văn miêu tả tả đôi khi cùng giống như một người họa sĩ đang vẽ tranh. Dù mẫu vật đang ở ngay trước mặt nhưng để miêu tả được hết cái hồn, cái thần của mẫu vật không phải là việc dễ dàng. Phải miêu tả như thế nào để toát ra 6
  7. được hết cái linh hồn và sắc thái riêng của mỗi sự vật mà khi đọc, người đọc có thể cảm nhận được điều đó. Làm thế nào để học sinh có thể viết ra được những cái mà mình đã quan sát? Để làm được điều này, giáo viên cần cung cấp cho học sinh một vốn từ ngữ gợi hình ảnh, phong phú và đa dạng. Việc cung cấp vốn từ này không chỉ được làm trong giờ Tập làm văn mà còn được rèn luyện chủ yếu trong các tiết Luyện từ và câu. Bản thân giáo viên cũng cần phải nắm rõ sự đa dạng và phong phú của tiếng Việt. Ví dụ nếu nói về màu đỏ thôi cũng đã có rất nhiều cách biểu thị khác nhau của sắc thái đỏ (bài thơ "Màu đỏ") Màu cờ Tổ quốc đỏ tươi Lò gang đỏ rực sáng ngời lửa sao Đỏ phai là sắc hoa đào Vườn cam đỏ ối, lao xao gió hè. Nhớ thương con mắt đỏ hoe Bình minh đỏ ửng hàng tre sau nhà. Sông Hồng đỏ lựng phù sa Mặt trời đỏ chói chan hòa nắng mai Đỏ ngầu là nước mương phai Bài làm điểm kém hai tai đỏ nhừ. ( theo Trúc Nam) Về ngữ pháp và cách diễn đạt, tiếng Việt cũng rất giàu khả năng miêu tả. Vì vậy muốn viết được những câu văn miêu tả hay, giáo viên cần chú ý dạy và sửa lỗi ngữ pháp và cách diễn đạt cho các em. Giáo viên có thể sửa lỗi diễn đạt và dùng từ cho học sinh vào tiết trả bài. Ngoài ra trong văn miêu tả cũng rất hay sử dụng các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Với các biện pháp tu từ này, sự vật và con người có thể có nhiều điểm giống nhau trong cách miêu tả. Có thể nhân hóa bằng nhiều cách để tả về hình dáng bên ngoài hay các hoạt động, tâm trạng của sự vật. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng những biện pháp tu từ để bài văn miêu tả thêm sinh động. 7
  8. II. NHỮNG KĨ NĂNG CẦN RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH KHI VIẾT VĂN MIÊU TẢ: 1. Tìm hiểu đề bài: Khi học văn miêu tả cần tìm hiểu yêu cầu của đề. Đề thường cho biết rõ đối tượng cần miêu tả (tả đồ vật con vật hay cây cối) trong phạm vi cụ thể. Khi ra đề, giáo viên cần nắm rõ mục đích và phạm vi của đề tài, không nên nói chung chung. Ví dụ: Giáo viên không thể ra đề " Tả một đồ vật" mà phải nói rõ đó là đồ vật gì. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, giáo viên cần yêu cầu các em gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng của đề bài, các em cần xác định rõ mình sẽ tả cái gì, tả như thế nào? 2. Quan sát, tìm ý, chọn ý: Cần nhấn mạnh với học sinh, khi quan sát ta không chỉ quan sát bằng mắt mà cần phải cảm nhận cả bằng các giác quan khác (xúc giác, thính giác vị giác ) và còn cả bằng tâm hồn, không phải chỉ là cảm giác đơn thuần mà còn phải gắn liền với suy nghĩ, cảm xúc của người viết Chính vì vậy, khi quan sát, chúng ta cần biết tìm ý và lựa chọn ý phù hợp, tránh viết tràn lan vào bài văn. Ví dụ khi đề bài yêu cầu: Tả một cây hoa mà em yêu thích hoặc có nhiều kỉ niệm gắn bó với em" giáo viên cần giúp các em định hướng miêu tả, không phải cứ thấy gì là tả đấy mà cần phải có sự suy nghĩ, chọn lọc ý: đó là cây hoa gì, dịp nào em có nó, cây có có những điểm gì làm em cảm thấy thích (hoặc gắn với kỉ niệm nào mà em không thể quên được? ) Làm được điều đó, các em sẽ có những phát hiện mới mẻ, riêng biệt về cây mà mình định tả. 3. Sắp xếp ý: Khi sắp xếp ý, các em cần chú ý: - Sắp xếp theo trình tự thời gian: Cái gì xảy ra trước thì tả trước, cái gì xảy ra sau thì tả sau. Sắp xếp theo trình tự không gian: Tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, tả từng bộ phận Đây chính là bước các em sẽ lựa chọn để xây dựng vào dàn ý. 8
  9. III. DÀN Ý MỘT SỐ BÀI VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4: 1. Tả đồ vật: a) Mở bài: Giới thiệu đồ vật cần miêu tả b) Thân bài: - Tả bao quát - Tả chi tiết (tả từng bộ phận) - Tả công dụng c) Kết bài: Tình cảm của em đối với đồ vật 2. Tả cây cối: a) Mở bài: Giới thiệu cây mình định tả (Đó là cây gì? Trồng ở đâu? Do ai trồng? Trồng từ bao giờ? ) b) Thân bài: - Tả bao quát về hình dáng của cây. - Tả chi tiết từng bộ phận của cây: rễ, thân, lá, cành, hoa, quả (hoặc có thể tả chi tiết về thời kì phát triển của cây: khi cây còn non đến khi cây trưởng thành, ra hoa và kết quả) c) Kết bài: Nêu tác dụng của của cây và tình cảm của em với cây đó. 3. Tả con vật: a) Mở bài: Giới thiệu con vật mình định tả b) Thân bài: - Tả hình dáng con vật: từ bao quát đến chi tiết - Tả hoạt động của con vật và thói quen sinh hoạt của nó ( có thể tả phối hợp ngoại hình và hoạt động của con vật) c) Tình cảm của em đối với con vật đó. IV. KẾT QUẢ: Qua thực tế giảng dạy ở các tiết dạy Tập làm văn, tôi nhận thấy: - Học sinh học tập làm văn tốt hơn, mạnh dạn, tự tin, có phương pháp học sáng tạo, học sinh có hứng thú học tập. - Chất lượng học văn miêu tả có chuyển biến rõ rệt. Số học sinh làm bài đạt điểm khá, giỏi tăng, học sinh đạt điểm yếu giảm đi rõ rệt. Thống kê chất lượng học văn miêu tả của học sinh (54 học sinh) như sau: GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU 8 7.4% 31 46.2% 12 31.5% 3 14.9 9
  10. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Đứng trước vai trò, vị trí và tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn ở Tiếu học, tôi thấy việc giáo viên nắm vững các dặc điểm của văn miêu tả để dạy cho học sinh là hết sức cần thiết. Phải nắm vững được các đặc điểm của văn miêu tả thì giáo viên mới tìm ra được các phương pháp dạy học thích hợp để truyền đạt tới học sinh. Có như vậy các em mới hình thành được cho mình kĩ năng viết văn miêu tả. Học tốt được văn miêu tả các em sẽ cảm nhận được thế giới xung quanh một cách rõ nét và sâu sắc hơn. Văn miêu tả ở lớp 4 sẽ là tiền đề cho các em học tiếp các dạng văn miêu tả ở các lớp cao hơn. Đối với bản thân, trong mỗi giờ dạy học văn miêu tả, tôi thấy mình đã tạo được sự say mê, hứng thú trong học sinh. Các tiết Tập làm văn bây giờ cũng nhẹ nhàng và hiệu quả hơn trước. Tuy nhiên, đây mới là những sáng kiến nhỏ của tôi. Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm tích lũy chưa nhiều nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Vì vậy, tôi rất mong các bạn đồng nghiệp cùng góp ý, bổ sung những thiếu sót đó. 2. Kiến nghị: Để học sinh có thể viết văn miêu tả được tốt hơn cần: Trang bị các phương tiện dạy học, tư liệu, tài liệu tham khảo hướng dẫn cho giáo viên và học sinh. 10
  11. PHẦN IV: PHỤ LỤC MỘT SỐ DÀN BÀI VÀ BÀI TẬP LÀM VĂN CỦA HỌC SINH 1. Tả cái cặp: A) Dàn ý: * Mở bài: - Nhân dịp năm học mới, mẹ mua cho em một chiếc cặp rất đẹp. Em còn gọi chiếc cặp đó là "chị cặp" * Thân bài: - Tả bao quát mặt ngoài: + Chị cặp sở hữu một thân hình chữ nhật + Toàn thân chị được bao phủ bởi một màu hồng. + Trên mặt chị có một gia đình gấu rất vui vẻ và hạnh phúc. + Chị cặp có quai xách được làm bằng vải có thêm lớp xốp, khi đeo rất mềm mại và thoải mái. + Trang điểm thêm cho chị còn có hai chiếc khóa cặp được làm bằng đồng . Mỗi khi mở khóa, tiếng "tách tách" vang lên nghe rất vui tai - Tả bên trong cặp: + Bên trong chị là ba vương quốc màu hồng + Vương quốc thứ nhất do sách ngự trị + Vương quốc thứ hai do hoàng hậu vở làm chủ. + Vương quốc thứ ba do ông vua hộp bút cai trị * Kết bài: - Em sẽ luôn luôn giữ gìn chiếc cặp thật cẩn thận. B) Bài làm Nhân dịp năm học mới, mẹ mua cho em một chiếc cặp mới rất đẹp. Em còn gọi chiếc cặp đó là chị cặp. Chị cặp sở hữu một thân hình rất "quyến rũ" hình chữ nhật. Toàn thân chị được bao phủ bởi một màu hồng lộng lẫy. Trên mặt chị là một gia đình gấu trông rất vui vẻ và hạnh phúc. Chị cặp có quai xách được làm bằng vải có thêm lớp xốp, nhờ vậy mà khi đeo, em thấy rất mềm mại và thoải mái. Trang điểm thêm cho chị còn có hai chiếc khóa cặp làm bằng đồng. Mỗi khi mở khóa, tiếng "tách, tách" vang lên nghe thật vui tai. Bên trong chị là cả ba vương quốc màu hồng. Vương quốc thứ nhất do ông vua sách ngự trị, vương quốc thứ hai do hoàng hậu vở làm chủ, còn vương quốc thứ ba do hoàng đế hộp bút cai trị. Tuy mỗi người một lãnh thổ nhưng không ai tranh giành ai và vương quốc của chị cặp rất thanh bình. Em rất yêu quý chị cặp. Em hứa sẽ giữ gìn chị thật cẩn thận để chị luôn đồng hành cùng em trên bước đường học tập. ( Bài làm của học sinh Vũ Kim Anh) 11
  12. 2. Tả cây hoa hồng: A) Dàn ý: * Mở bài: - Loài hoa mà các bạn yêu thích nhất là gì? - Em thích nhất là hoa hồng nhung kiêu sa. * Thân bài: - Tả bao quát: (từ xa): cây cao ngang bụng, trồng thành khóm. - Tả chi tiết từng bộ phận: + Thân cây: như những chiếc đũa ăn cơm, nhiều gai sắc nhọn (vệ sĩ) + Lá cây: như thìa con, viền răng cưa. . Lá non: màu đỏ tía, non nớt. . Lá già: màu xanh sẫm, cứng cỏi, xòe ra như bàn tay em bé. - Tả vẻ đẹp của hoa: + Nụ hoa: nhỏ xíu, bọc kín trong đài hoa xanh non. + Bông hoa: xòe ra đỏ thắm, cánh hoa mịn như nhung, xếp so le từng lớp. Nhị hoa màu vàng tươi, hương thơm thoang thoảng khắp vườn. * Kết bài: - Ích lợi: hoa được dùng để trang trí, cắm lọ, làm nước hoa - Em rất yêu mến cây và sẽ chăm sóc cây thật cẩn thận. B) Bài làm: Loài hoa mà các bạn yêu thích là hoa gì? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời: chị huệ trắng muốt duyên dáng hay cô vi-ô-lét tím điệu đà? Nhưng đối với em, loài hoa đẹp nhất chính là hoa hồng. Nhìn cô nàng hồng nhung đứng giữa các bạn mình trông thật kiêu hãnh. Thân cây cao ngang bụng, màu nâu bóng, dài và to bằng cái đũa. Trên thân cây có nhiều gai sắc nhọn như chàng vệ sĩ bảo vệ cho nàng công chúa hồng nhung. Mấy chiếc lá nho nhỏ, xanh sẫm, có viền răng cưa và nổi nhiều đường gân. Khi lá còn non thì có màu đỏ tía, khi lá già có màu xanh sẫm, cứng cỏi, xòe ra như bàn tay em bé. Vừa tối hôm qua, nụ hoa còn nhỏ xíu, bọc kín trong đài hoa xanh. Thế mà sáng nay, hoa chợt bừng nở, khoác lên mình một bộ dạ hội rực rỡ. Ôi! Thật là đẹp! Đẹp nhất vào buổi sáng sớm, khi những giọt sương mai đọng trên lớp lớp tầng áo như những viên kim cương lấp lánh. Lúc đó, hồng nhung như một nàng công chúa kiều diễm, kiêu sa. Cánh hoa mịn màng, mượt mà như tơ lụa đỏ thắm. Nhị hoa màu vàng tươi, hương thơm thoang thoảng khắp vườn. Nắng lên, hoa lại càng khoe sắc thắm, ong bướm như bị thu hút bởi vẻ đẹp kiều diễm của hoa, rập rờn vui đùa bên cây suốt ngày. Hoa hồng không chỉ để làm đẹp mà có thể được sử dụng để làm nước hoa, chữa bệnh. Em rất thích hồng nhung. Hằng ngày, em luôn luôn tưới nước để cây không bị khô héo và kêu gọi mọi người không nên hái hoa bẻ cành. ( Bài làm của học sinh Phạm Thùy Trang) 12
  13. 3. Tả con mèo: A) Dàn ý: * Mở bài: Hôm nay nhà em tưng bừng hẳn lên vì mẹ mới đưa về một thành viên mới. Đó là chú mèo con mới tròn hai tháng tuổi. * Thân bài: - Tả hình dáng: + Bộ lông: tam thể (xen 3 màu: đen, trắng, vàng); lông mềm, mượt như nhung, ấm áp. + Đầu: Tròn như quả bóng tennis + Tai: Như hai hình tam giác. + Mắt: trong veo như thủy tinh, sáng như đèn pin + Mũi: nhỏ, hồng hồng, lúc nào cũng ươn ướt. + Ria (mép): vểnh lên có vẻ oai vệ lắm. + Chân: cao, thon thon, có đệm thịt êm, không gây ra tiếng động. + Đuôi: dài, trông thướt tha, duyên dáng. - Tả hoạt động (thói quen sinh hoạt) + Bắt chuột: rón rén từng bước nhẹ nhàng; nhanh như cắt vồ lấy con chuột; con mồi nằm gọn trong móng vuốt sắc nhọn. * Kết bài: Em rất yêu quý chú mèo. B) Bài làm: Hôm nay nhà em tưng bừng hẳn lên vì mẹ mới đưa về một thành viên mới. Đó là chú mèo con mới tròn hai tháng tuổi. Chú mèo có bộ lông tam thể xen lẫn ba màu đen, trắng vàng. Bộ lông mềm, mượt như nhung và ấm áp làm sao. Đầu chú tròn như quả bóng tennis, đôi tai như hai hình tam giác, lúc nào cũng vểnh lên nghe ngóng. Mắt chú trong veo như thủy tinh, sáng như đèn pin, đặc biệt là vào ban đêm, giúp mèo ta nhìn rõ mọi vật. Cái mũi xinh xinh, nho nhỏ, hồng hồng lúc nào cũng ươn ướt. Mẹ em bảo "Mũi mèo ướt tức là chú ta rất khỏe mạnh". Bộ ria của chú mèo chính là một cái ra đa rất nhạy, có thể dễ dàng phát hiện ra bọn chuột. Lúc nào bộ ria ấy cũng vểnh lên có vẻ oai vệ lắm. Bốn cái chân thon thon, cao, có đệm thịt êm, khi đi không gây ra tiếng động mà như lướt nhẹ nhàng trên mặt đất. Cái đuôi dài trông thướt tha, duyên dáng. Dạo này nhà em đang bị lũ chuột phá phách, đặc biệt là khu vực bếp. Vì vậy mèo ta hay nằm rình nơi lũ chột hay xuất hiện. Chú dỏng đôi tai nghe ngóng. Khi phát hiện thấy chột, chú rón rén từng bước. Nhanh như cắt, chú ta vồ lấy con chuột. Sau tiếng la thất thanh của chuột, em ra xem thì thấy con chuột đã nằm gọn trong móng vuốt sắc nhọn của chú mèo. Từ hôm đó, nhà em vắng bóng hẳn lũ chuột quậy phá. Để thưởng cho thành tích trên, mẹ em thưởng cho chú một bữa cá rán ngon lành. Bố em đã tặng cho chú danh hiệu "dũng sĩ diệt chuột". Cả nhà ai cũng yêu quý chú. Chú là con vật có ích. Mỗi khi âu yếm vuốt ve chú, em đều mong chú lớn thật nhanh và sống thật lâu với gia đình em. 13
  14. ( Bài làm của học sinh Nguyễn Lê Quỳnh Anh) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách Tiếng Việt 4 (tập 1 + Tâp 2) của Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông - Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), Phạm Minh Diệu 3. Bài tập nâng cao Từ và Câu lớp 4 - Nhà xuất bản Đại học sư phạm 4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 4 của Nhà xuất bản Giáo dục 5. Tập làm văn 4 - Đặng Mạnh Thường 14
  15. Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2012 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Đặng Huyền Anh 15