Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử bậc THCS

doc 91 trang thienle22 6820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docchuan_kien_thuc_ki_nang_mon_lich_su_bac_thcs.doc

Nội dung text: Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử bậc THCS

  1. CHUẨN KIẾN THỨC, KĨ NĂNG MÔN LỊCH SỬ BẬC THCS LỚP 6 Mở đầu: SƠ LƯỢC VỀ MÔN LỊCH SỬ 1. Lịch sử là gì? Xã hội loài người có lịch sử hình thành và phát triển. Vậy Lịch sử là gì? - Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ. - Lịch sử còn là một khoa học, có nhiệm vụ tìm hiểu và khôi phục lại quá khứ của con người và xã hội loài người. 2. Mục đích học tập Lịch sử là gì? - Trước hết, học lịch sử để biết được gốc tích, cội nguồn của tổ tiên, quê hương, đất nước, dân tộc mình. - Từ hiểu biết ấy, chúng ta phải trân trọng và tự hào trước cuộc sống đấu tranh và lao động sáng tạo của dân tộc mình và của cả loài người trong quá khứ xây dựng nên xã hội văn minh như ngày nay. - Để hiểu được những gì chúng ta đang thừa hưởng của ông cha trong quá khứ và biết mình phải làm gì cho tương lai. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ THẾ GIỚI NGUYÊN THỦY VÀ CỔ ĐẠI Chủ đề 1. XÃ HỘI NGUYÊN THỦY 1. Con người đã xuất hiện trên Trái đất như thế nào? - Cách ngày nay khoảng 5 - 6 triệu năm, trên trái đất đã xuất hiện loài Vượn cổ có dáng hình người. - Khoảng 3 - 4 triệu năm về trước, loài Vượn cổ đã tiến hóa và xuất hiện Người tối cổ. Người tối cổ đã thoát khỏi thế giới động vật, con người hoàn toàn đi bằng hai chân, đôi tay đã trở nên khéo léo, có thể cầm nắm và biết sử dụng những hòn đá, cành cây làm công cụ. Đặc biệt, Người tối cổ đã biết chế tạo ra những công cụ thô sơ (bằng đá) và phát minh ra lửa. - Khoảng 4 vạn năm về trước, Người tối cổ tiến hóa dần trong quá trình lao động trở thành Người tinh khôn. Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể như con người ngày nay với thể tích sọ não lớn, tư duy phát triển. Như vậy là lao động có vai trò sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Thông qua các di cốt được tìm thấy ở khắp các châu lục: Đông Phi, Đông Nam Á, Trung Quốc, châu Âu, Các nhà khảo cổ học đã tái hiện được lịch sử sự xuất hiện và tiến hóa của con người và xã hội loài người trên trái đất. 2. Giữa Người tối cổ và Người tinh khôn có sự khác nhau như thế nào? - Ở Người tối cổ: trán thấp và bợt ra phía sau, u mày nổi cao; cả cơ thể còn phủ một lớp lông ngắn; dáng đi còn hơi còng, lao về phía trước; thể tích sọ não từ 850 cm3 đến 1.100 cm3. - Ở Người tinh khôn: mặt phẳng, trán cao, không còn lớp lông trên người; dáng đi thẳng, bàn tay nhỏ, khéo léo; thể tích sọ não lớn hơn: 1.450 cm3. 3. Vì sao xã hội nguyên thủy tan rã? - Khoảng 4.000 năm TCN, con người phát hiện ra kim loại (đồng và quặng sắt) cùng với thuật luyện kim đã giúp chế tạo ra các công cụ lao động. - Nhờ công cụ bằng kim loại, con người có thể khai phá đất hoang, tăng diện tích và năng suất trồng trọt sản phẩm làm ra nhiều, xuất hiện của cải dư thừa - Một số người chiếm hữu của cải dư thừa, trở nên giàu có xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo. Xã hội nguyên thủy dần dần tan rã. Chủ đề 2. XÃ HỘI CỔ ĐẠI 1. Các quốc gia cổ đại đã xuất hiện và phát triển như thế nào? Nội dung Ở phương Đông Ở phương Tây Thời gian Cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III Đầu thiên niên kỉ I TCN. TCN. Ở Ai Cập, khu vực lưỡng Hà, Ấn Độ, và Trên các bán đảo Ban Căng ở I-ta-li-a, ở 1
  2. Địa điểm Trung Quốc ngày nay, trên lưu vực các đó có rất ít đồng bằng, chủ yếu là đất đồi, dòng sông lớn như sông Nin ở Ai Cập, Ơ- khô và cứng, nhưng lại có nhiều hải cảng phơ-rát và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà, sông Ấn tốt, thuận lợi cho buôn bán đường biển. và sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Đời sống + Ngành KT chính là nông nghiệp. Biết làm + Ngành KT chính là thủ công nghiệp (luyện kinh tế thủy lợi, đắp đê ngăn lũ, đào kênh máng dẫn kim, đồ mĩ nghệ, đồ gốm, làm rượu nho, dầu nước vào ruộng. Thu hoạch lúa ổn định ô liu) và thương nghiệp (xuất khẩu các mặt hằng năm theo mùa vụ. Ngoài ra còn phát hàng thủ công, rượu nho, dầu ô liu, nhập lúa triển chăn nuôi gia súc. mì và súc vật). Ngoài ra còn trồng trọt cây lưu niên như nho, ô liu, cam, Các tầng + 3 tầng lớp chính + 2 giai cấp chính lớp xã hội - Nông dân công xã, đông đảo nhất và là tầng - Giai cấp chủ nô: gồm các chủ xưởng thủ lớp lao động, sản xuất chính trong xã hội. công, thuyền buôn, trang trại , rất giàu và - Quý tộc là tầng lớp có nhiều của cải và có thế lực về chính trị, sở hữu nhiều nô lệ. quyền thế, bao gồm vua, quan lại và tăng lữ. - Giai cấp nô lệ: với số lượng rất đông, là - Nô lệ là những người hầu hạ, phục dịch cho lực lượng lao động chính trong xã hội, bị quý tộc; thân phận không khác gì con vật. chủ nô bóc lột và đối xử rất tàn bạo. Tổ chức + Tổ chức bộ máy nhà nước do vua đứng + Tổ chức bộ máy nhà nước do giai cấp chủ xã hội đầu (vua có quyền đặt ra luật pháp, chỉ huy nô bầu ra, làm việc theo thời hạn. Giai cấp quân đội, xét xử những người có tội, được thống trị là chủ nô, nắm giữ mọi quyền hành coi là đại diện của thần thánh ở dưới trần (tuy có dân chủ hơn so với xã hội cổ đại gian). phương Đông). + Bộ máy hành chính từ TW đến địa + Bộ máy hành chính phân ra theo các thành phương: giúp việc cho vua, lo thu thuế, xây bang, có sự phân quyền hơn so với xã hội cổ dựng cung điện, đền tháp và chỉ huy quân đại phương Đông. đội (vẽ sơ đồ). Những + Biết làm lịch và dùng lịch âm (1 năm có + Biết làm lịch và dùng lịch dương, chính thành tựu 12 tháng, mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày); xác hơn: 1 năm có 365 ngày và 6 giờ, chia văn hóa biết làm đồng hồ đo thời gian bằng bóng thành 12 tháng. chính nắng mặt trời. + Sáng tạo ra hệ chữ cái a, b, c gồm 26 chữ, + Sáng tạo chữ viết, gọi là chữ tượng hình gọi là hệ chữ cái La-tinh, đang được dùng phổ (vẽ mô phỏng vật thật để nói lên suy nghĩ biến hiện nay. của con người); viết trên giấy Pa-pi-rút, trên + Khoa học phát triển cao, đặt nền móng cho mai rùa, thẻ tre và các tấm đất sét các ngành khoa học sau này. Một số nhà khoa + Toán học: phát minh ra phép đếm đến 10, học nổi tiếng như: Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-cơ-lít các chữ số từ 1 đến 9 và số 0, tính được số (Toán học); Ác-si-mét (Vật lí); Pla-tôn, A-ri- Pi bằng 3,16. xtốt (Triết học); Hê-rô-đốt, Tu-xi-đít (Sử học); + Kiến trúc: xây dựng các công trình kiến Stơ-ra-bôn (Địa lí) trúc đồ sộ như Kim tự tháp ở Ai Cập, thành + Kiến trúc và điêu khắc với nhiều công trình Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà nổi tiếng như: đền Pác-tê-nông ở A-ten; đấu trường Cô-li-đê ở Rô-ma, tượng Lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ ở Mi-lô 2. Một số thuật ngữ, khái niệm lịch sử. a. Thế nào là “tư liệu lịch sử”, “tư liệu truyền miệng”, “tư liệu hiện vật” và “tư liệu chữ viết”? Tư liệu lịch sử là tất cả những dấu tích của con người trong quá khứ được lưu giữ, truyền lại dưới nhiều dạng khác nhau giúp chúng ta hiểu biết và dựng lại được lịch sử. Tư liệu truyền miệng là những câu chuyện, những lời mô tả được truyền từ đời này sang đời khác ở rất nhiều dạng khác nhau. Tư liệu hiện vật là những di tích, đồ vật của người xưa còn lưu giữ được trong lòng đất hay trên mặt đất. Tư liệu chữ viết là những bản ghi, sách vở chép tay hay được in, khắc bằng chữ viết. 2
  3. b. Xã hội nguyên thủy là gì? Lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ xã hội nguyên thủy. Thời kỳ này chiếm phần lớn thời gian của lịch sử nhân loại, nó bắt buộc tất cả các dân tộc phải đi qua vì đó là thời thơ ấu của họ. Xã hội nguyên thủy là chế độ xã hội đầu tiên của lịch sử loài người. Trong xã hội đó, do việc kiếm sống chủ yếu là săn bắt, hái lượm, phụ thuộc vào thiên nhiên; mọi sản phẩm của cộng đồng được chia đều cho mọi người, không có sự phân biệt kẻ giàu, người nghèo và không có phân biệt giai cấp, áp bức bóc lột. Tổ chức xã hội còn hết sức sơ khai theo chế độ thị tộc, bộ lạc. c. Em hiểu như thế nào về các khái niệm: “chế độ thị tộc”, “thị tộc mẫu hệ” , “thị tộc phụ hệ”và “bộ lạc”? Trải qua hàng triệu năm phát triển, bầy người nguyên thủy tiến lên một cộng đồng mới cao hơn: Công xã thị tộc hay còn gọi là Chế độ thị tộc. Chế độ thị tộc: là tổ chức của những người có cùng quan hệ lâu dài, cùng huyết thống đã họp thành một nhóm riêng cùng sống trong một hang động hay mái đá, hoặc trong một vùng nhất định nào đó. Thị tộc mẫu hệ hay còn gọi là Thị tộc mẫu quyền: là chế độ của những người cùng huyết thống, hôn nhân đã tuân theo chế độ ngoại tộc hôn, qui định nam nữ trong thị tộc là ruột thịt, nên không được kết hôn với nhau. Nhưng là vì hôn nhân tập thể (quần hôn) làm cho con cái chỉ biết mặt mẹ nên theo họ mẹ. Tất cả tôn người mẹ lớn tuổi nhất lên làm chủ. Trong thị tộc mẫu hệ, kinh tế hái lượm vẫn là chủ yếu. Người nguyên thủy thời kỳ này cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Chế độ mẫu hệ là thời kỳ hưng thịnh nhất của xã hội nguyên thủy. Nó kéo dài khoảng 18.000 năm trong lịch sử, đến nay chế độ mẫu hệ vẫn còn nhiều tàn dư ở một số dân tộc trên thế giới. Thị tộc phụ hệ hay còn gọi là Thị tộc phụ quyền: Ham muốn của người nguyên thủy cũng như con người về sau là làm thế nào để nâng cao năng suất lao động. Khoảng 4.000 năm trước công nguyên con người đã tìm ra đồng. Người nguyên thủy đã phát minh ra cung tên mà tầm quan trọng của nó được F. Ăng-ghen đánh giá như phát minh ra súng của thời cận đại. Các ngành nghề thủ công, chăn nuôi cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Một cuộc phân công lao động và sự chuyển biến vị trí giữa đàn ông và đàn bà bắt đầu. Thị tộc mẫu quyền nhường chỗ cho thị tộc phụ quyền (trong đó, quyền lực của người cha - đàn ông trong bộ lạc được đề cao). Từ khi có sự phân công lao động, sản xuất ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng ổn định. Ở các vùng đồng bằng ven các con sông lớn hình thành các làng bản (chiềng, chạ), các làng bản vùng cao cũng nhiều hơn trước. Dần dần hình thành các cụm chiềng, chạ hay làng bản, có quan hệ chặt chẽ với nhau được gọi là bộ lạc. d. Xã hội “chiếm hữu nô lệ” là gì? Là xã hội có hai giai cấp chính là chủ nô và nô lệ, trong đó giai cấp chủ nô thống trị và bóc lột giai cấp nô lệ. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN THẾ KỈ X Chủ đề 1. BUỔI ĐẦU LỊCH SỬ NƯỚC TA 1. Những dấu tích của Người tối cổ và Người tinh khôn được tìm thấy ở Việt Nam đã nói lên điều gì? Dấu tích là cái còn lại của thời xa xưa, của quá khứ tương đối xa được con người hiện tại phát hiện, khai quật để phục vụ cho các mục đích nghiên cứu về lịch sử xã hội loài người. Các nhà khảo cổ qua nhiều đợt thăm dò, khảo sát và khai quật đã tìm thấy các dấu tích của Người tối cổ và Người tinh khôn trên khắp đất nước Việt Nam. Điều đó đã khẳng định Việt Nam cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại có con người xuất hiện từ rất sớm và rất phát triển. Ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn); Núi Đọ (Thanh Hóa); Xuân Lộc (Đồng Nai) đã tìm thấy những chiếc răng của Người tối cổ, những mảnh đá được ghè đẽo ở nhiều cỗ, có hình thù rõ ràng, dùng để chặt, đập; có niên đại cách đây 40 - 30 vạn năm. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã khẳng định: Người tối cổ vẫn còn những dấu tích của loài vượn (trán thấp và bợt ra phía sau, mày nổi cao, xương hàm nhô ra phía trước, trên người còn một lớp lông bao phủ ); đã hoàn toàn đi bằng hai chân, hai chi trước đã biết cầm nắm, hộp sọ đã phát triển, thể tích sọ não lớn, biết sử dụng và chế tạo công cụ. 3
  4. Dấu tích Người tinh khôn giai đoạn đầu được tìm thấy ở mái đá Ngườm (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ). Đó là những chiếc rìu bằng hòn cuội, được ghè đẽo thô sơ, có hình thù rõ ràng; có niên đại khoảng 3 - 2 vạn năm cách ngày nay. Sang giai đoạn phát triển, đó là những công cụ được mài ở lưỡi như rìu ngắn, rìu có vai, một số công cụ bằng xương, bằng sừng, đồ gốm, được tìm thấy ở Hòa Bình, Bắc Sơn (Lạng Sơn), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long (Quảng Ninh) , có niên đại từ 12.000 đến 4.000 năm cách ngày nay. Qua các dấu tích đã khẳng định Người tinh khôn đã có sự phát triển, tiến bộ hơn hẳn Người tối cổ về đặc điểm cấu tạo cơ thể và trình độ chế tạo công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt. Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể giống như con người ngày nay, xương cổ nhỏ hơn Người tối cổ, bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay linh hoạt, hộp sọ và thể tích não phát triển (1.450 cm3), trán cao, mặt phẳng, cơ thể gọn và linh hoạt. Cũng thông qua các dấu tích, ta còn nhận biết được sự phát triển của Người tinh khôn so với Người tối cổ. Về đời sống vật chất: Người tinh khôn thường xuyên cải tiến và đạt được những bước tiến bộ về chế tác công cụ sản xuất cũng như đồ dùng sinh hoạt. Từ thời Sơn Vi, con người đã biết ghè đẽo các hòn cuội thành rìu; đến thời Hòa Bình - Bắc Sơn họ đã biết dùng các loại đá khác nhau để mài thành các loại công cụ như rìu, bôn, chày. Họ còn biết dùng tre, gỗ, xương, sừng làm công cụ và biết làm đồ gốm; biết trồng trọt (rau, đậu, bí, bầu ) và chăn nuôi. Nhờ nghề nông và chăn nuôi phát triển, họ đã chủ động được lương thực, thực phẩm, dần thoát khỏi sự lệ thuộc vào thiên nhiên. Hơn nữa, cùng với công cụ sản xuất tiến bộ kéo theo năng suất lao động tăng, đời sống ngày càng ổn định và nâng cao. Về tổ chức xã hội: Người tinh khôn đã biết sống thành từng nhóm trong các hang động, ở những vùng thuận tiện, thường định cư lâu dài ở một số nơi (Hòa Bình - Bắc Sơn). Cũng do sự tiến bộ của công cụ sản xuất, kinh tế phát triển nên đời sống không ngừng được nâng cao, dân số ngày càng tăng, dần dần đã hình thành các mối quan hệ xã hội và đời sống tinh thần. Đời sống tinh thần: Họ đã biết chế tác và sử dụng những đồ trang sức; biết vẽ những hình mô tả cuộc sống tinh thần của mình. Rồi đã hình thành một số phong tục tập quán và tín ngưỡng: thể hiện trong mộ táng có chôn theo lưỡi cuốc đá. Như vậy là trong thời kì nguyên thủy, con người đã bắt đầu quan tâm đến đời sống tinh thần thể hiện ở việc làm đẹp bản thân và bày tỏ tình cảm với người chết. Đó là một bước tiến đáng kể trong sự phát triển tinh thần của loài người. Chủ đề 2. THỜI KÌ VĂN LANG - ÂU LẠC I. Thời kì Văn Lang - Âu Lạc đã có những chuyển biến như thế nào trong đời sống kinh tế, xã hội? 1. Trình độ sản xuất, chế tác công cụ của người Việt cổ đã có sự phát triển, tiến bộ như thế nào? Người nguyên thủy trên đất nước ta lúc đầu sinh sống ở các hang động, sau đó tiếp tục mở rộng vùng cư trú đến các vùng chân núi, thung lũng ven khe suối, vùng đất bãi ven sông. Qua các di chỉ Phùng Nguyên (Phú Thọ), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Lung Leng (Kon Tum), có niên đại cách đây 4.000 - 3.500 năm, các nhà khảo cổ đã phát hiện hàng loạt công cụ: rìu đá, bôn đá được mài nhẵn toàn bộ, có hình dáng cân xứng; những đồ trang sức, những loại đồ gốm khác nhau như bình, vò, vại, bát, đĩa Những mảnh gốm thường in hoa văn hình chữ S nối nhau, đối xứng, hoặc in những con dấu nổi liền nhau Điều đó chứng tỏ người Việt cổ đã đạt được trình độ cao về mặt chế tác công cụ sản xuất và đồ trang sức, đồ dùng sinh hoạt Đặc biệt, người Việt cổ ở Phùng Nguyên (Phú Thọ) và Hoa Lộc (Thanh Hóa) còn phát minh ra thuật luyện kim (kim loại được dùng đầu tiên là đồng). Kỹ thuật luyện kim phát triển mạnh, cư dân Lạc Việt đã biết làm ra những công cụ sản xuất bằng kim loại như rìu đồng và quan trọng nhất là lưỡi cày đồng và lưỡi hái bằng đồng ảnh hưởng mạnh đến sinh hoạt nông nghiệp. Lưỡi cày thời ấy có hình cánh bướm hoặc hình tam giác. Và xuất sắc đặc biệt là dân Lạc Việt đã đúc nên những chiếc đồng phức tạp đòi hỏi một trình độ kỹ thuật văn hóa cao. Những dụng cụ sinh hoạt như mâm đồng, đục, kim khâu, dao, lưỡi câu, chuông và đồ trang sức cũng được sản xuất với số lượng đáng kể. Ngoài ra, đã có nghề luyện sắt và nghề gốm. 4
  5. Thuật luyện kim ra đời đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc trong chế tác công cụ sản xuất, đồ trang sức, dụng cụ sinh hoạt và cả vũ khí của người Việt cổ, làm cho sản xuất và đời sống sinh hoạt xã hội có bước phát triển cao hơn hẳn. 2. Sự ra đời nghề nông trồng lúa nước của người Việt cổ có ý nghĩa, tầm quan trọng như thế nào? Người nguyên thủy trên đất nước ta lúc đầu sinh sống ở các hang động, sau đó tiếp tục mở rộng vùng cư trú đến các vùng chân núi, thung lũng ven khe suối, vùng đất bãi ven sông. Trên các vùng cư trú rộng lớn ở đồng bằng ven sông, ven biển và vùng thung lũng ven suối, người Việt cổ đã phát hiện ra cây lúa và nghề trồng lúa nước ra đời. Thoạt tiên đó là những giống lúa hoang. Về sau được thuần dưỡng để trở thành hạt gạo dẻo thơm. Qua các di chỉ Phùng Nguyên - Hoa Lộc, các nhà khoa học phát hiện hàng loạt lưỡi cuốc đá được mài nhẵn toàn bộ ; tìm thấy gạo cháy, dấu vết thóc lúa bên cạnh các bình, vò đất nung lớn Chứng tỏ cây lúa nước đã dần dần trở thành cây lương thực chính của con người. Sự ra đời nghề nông trồng lúa nước có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình tiến hóa của con người : từ đây, con người có thể định cư lâu dài ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn ; cuộc sống trở nên ổn định hơn, phát triển hơn cả về vật chất và tinh thần. 3. Trình bày những biểu hiện về sự chuyển biến xã hội thời Văn Lang - Âu Lạc ? Từ khi thuật luyện kim được phát minh và nghề nông trồng lúa nước ra đời, con người phải chuyên tâm làm một công việc nhất định. Sự phân công lao động đã được hình thành cụ thể : Phụ nữ làm việc nhà, thường tham gia sản xuất nông nghiệp và làm đồ gốm, dệt vải vì người Việt cổ không chỉ độc canh cây lúa mà còn trồng các loại rau củ, cây trái như khoai, đậu, trồng dâu, nuôi tằm. Nam giới, một phần làm nông nghiệp, đi săn, đánh cá ; một phần chuyên hơn làm công việc chế tác công cụ, đúc đồng, làm đồ trang sức , về sau, được gọi chung là nghề thủ công. Từ khi có sự phân công lao động, sản xuất ngày càng phát triển, cuộc sống con người ngày càng ổn định ; ở các vùng đồng bằng ven các con sông lớn hình thành các làng bản (chiềng, chạ), các làng bản ở vùng cao cũng nhiều hơn trước. Dần dần hình thành các cụm chiềng, chạ hay làng bản có quan hệ chặt chẽ với nhau được gọi là bộ lạc. Vị trí của người đàn ông trong sản xuất và gia đình, làng bản ngày càng cao hơn. Chế độ phụ hệ dần dần thay thế cho chế độ mẫu hệ. II. Nước Văn Lang đã ra đời và phát triển như thế nào? 1. Trình bày những điều kiện dẫn tới sự ra đời của nhà nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam? Vào khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã hình thành những bộ lạc lớn. Sản xuất phát triển, mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng tăng thêm. Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở các vùng đồng bằng ven các con sông lớn thường xuyên phải đối mặt với hạn hán, lũ lụt. Vì vậy, cần phải có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân dân các làng để giải quyết vấn đề thủy lợi bảo vệ sản xuất, mùa màng và đời sống. Ngoài mâu thuẫn, xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo như đã nói ở trên thì các làng bản khi giao lưu với nhau cũng có xung đột. Đó là xung đột giữa người Lạc Việt với các bộ tộc người khác và cả giữa các bộ lạc Lạc Việt với nhau. Để có cuộc sống yên ổn, cần phải có một thế lực đủ sức giải quyết, chấm dứt các xung đột đó. Như vậy là để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển sản xuất, làm thủy lợi và giải quyết các vấn đề xung đột chính là những điều kiện dẫn tới sự ra đời của nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. 2. Trình bày những hiểu biết của em về nước Văn Lang ? Thời gian và địa bàn thành lập : Bộ lạc Văn Lang cư trú trên vùng đất ven sông Hồng là vùng có nghề đúc đồng phát triển sớm, dân cư đông đúc. Bộ lạc Văn Lang là một trong những bộ lạc hùng mạnh nhất thời đó. Vào khoảng thế kỉ VII TCN ở vùng Gia Ninh (Phú Thọ), thủ lĩnh của bộ lạc Văn Lang đã dùng tài trí khuất phục được các bộ lạc khác và tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Bạch Hạc (thuộc Phú Thọ ngày nay), đặt tên nước là Văn Lang. Tổ chức nhà nước Văn Lang : Sơ đồ tổ chức bộ máy Nhà nước Văn lang 5
  6. HÙNG VƯƠNG LẠC HẦU - LẠC TƯỚNG (trung ương) LẠC TƯỚNG LẠC TƯỚNG (bộ) (bộ) Bồ chính Bồ chính Bồ chính Bồ chính (chiềng, chạ) (chiềng, chạ) (chiềng, chạ) (chiềng, chạ) Chính quyền TW gồm (vua, lạc hầu, lạc tướng) ; ở địa phương (chiềng, chạ) ; đơn vị hành chính : nước - bộ (chia nước làm 15 bộ, dưới bộ là chiềng, chạ) ; Vua nắm mọi quyền hành trong nước, đời đời cha truyền con nối và đều gọi là Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang tuy chưa có luật pháp, quân đội, nhưng đã là một tổ chức chính quyền cai quản cả nước. Đời sống vật chất : Nước Văn Lang là một nước nông nghiệp, thóc lúa đã trở thành lương thực chính, ngoài ra, cư dân còn trồng khoai, đậu, cà, bầu, bí, chuối, cam Nghề trồng dâu, đánh cá, chăn nuôi gia súc và các nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt vải, xây nhà, đóng thuyền đều được chuyên môn hóa. Nghề luyện kim đạt trình độ kĩ thuật cao. Cư dân cũng bắt đầu biết rèn sắt. Thức ăn chính của người Văn Lang là cơm nếp, cơm tẻ, rau, cà, thịt, cá, biết làm mắm và dùng gừng làm gia vị. Họ ở nhà sàn mái cong hình thuyền hay mái tròn hình mui thuyền làm bằng gỗ, tre, nứa, lá. Làng, chạ thường gồm vài chục gia đình, sống ven đồi, ven sông, ven biển. Họ đi lại bằng thuyền. Về trang phục, nam đóng khố mình trần, nữ mặc váy, áo xẻ giữa, có yếm che ngực, tóc cắt ngắn hoặc bỏ xõa, búi tó hoặc tết đuôi sam. Ngày lễ họ thích đeo các đồ trang sức như vòng tay, khuyên tai, đội mũ cắm lông chim hoặc bông lau. Đời sống tinh thần : Xã hội thời Văn Lang đã chia thành nhiều tầng lớp khác nhau: những người quyền quý, dân tự do, nô tì. Sự phân biệt các tầng lớp còn chưa sâu sắc. Thường tổ chức lễ hội, vui chơi (một số hành ảnh về lễ hội đã được ghi lại trên mặt trống đồng như : đua thuyền, giã gạo, ca hát nhảy múa ). Cư dân Văn Lang có một số phong tục tập quán : như hôn nhân, thờ cúng tổ tiên (truyện Tấm Cám ; Bánh chưng, bánh giầy ). III. Nước Âu Lạc đã ra đời và phát triển như thế nào? 1. Hoàn cảnh ra đời và tổ chức nhà nước Âu Lạc? Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần (hoàn cảnh ra đời nhà nước Âu Lạc) Năm 218 TCN, nhà Tần đánh xuống phương Nam để mở rộng bờ cõi. Sau 4 năm chinh chiến, quân Tần kéo đến vùng Bắc Văn Lang, nơi người Lạc Việt cùng sống với người Âu Việt, vốn có quan hệ gần gũi với nhau từ lâu đời. Cuộc kháng chiến bùng nổ. Thủ lĩnh Âu Việt bị giết, nhưng nhân dân Âu Việt và Lạc Việt không chịu đầu hàng. Họ tôn người kiệt tuấn tên là Thục Phán lên làm tướng, ngày ở trong rừng, đêm ra đánh quân Tần. Năm 214 TCN, người Việt đã đại phá quân Tần, giết được Hiệu úy Đồ Thư. Kháng chiến thắng lợi. Sự ra đời của Nhà nước Âu Lạc: Sau cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi, năm 207 TCN, Thục Phán buộc vua Hùng nhường ngôi cho mình và sáp nhập hai vùng đất cũ của người Âu Việt và Lạc Việt thành một nước mới, đặt tên nước là Âu Lạc. Thục Phán tự xưng An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa, huyện Đông Anh - Hà Nội). Bộ máy nhà nước thời An Dương Vương không có gì thay đổi so với thời Hùng Vương. Tuy nhiên, quyền hành của Nhà nước đã cao và chặt chẽ hơn trước. Vua có quyền thế hơn trong việc trị nước. 6
  7. 2. Tình hình sản xuất và đời sống xã hội thời Âu Lạc đã có sự thay đổi và tiến bộ như thế nào ? Trong nông nghiệp, lưỡi cày đồng đã được cải tiến và dùng phổ biến hơn. Lúa gạo, khoai, đậu, củ, rau làm ra ngày một nhiều. Chăn nuôi, đánh cá, săn bắn đều phát triển. Các nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt, làm đồ trang sức đều tiến bộ. Các ngành luyện kim và xây dựng đặc biệt phát triển. Việc chế tác công cụ sản xuất bằng đồng và sắt đã đạt đến trình độ kĩ thuật cao. Giáo, mác, mũi tên đồng, rìu đồng, cuốc sắt, rìu sắt được sản xuất ngày càng nhiều. Đặc biệt về xây dựng có thể kể đến công trình thành Cổ Loa. Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, An Dương Vương cho xây dựng ở Phong Khê một khu thành đất rộng hơn nghìn trượng, có ba vòng khép kín với chu vi khoảng 16.000 m như hình trôn ốc, sau này gọi là Loa thành hay thành Cổ Loa. Các vòng thành đều có hào bao quanh và thông nhau. Bên trong thành Nội là nơi ở, làm việc của An Dương Vương và các Lạc hầu, Lạc tướng. Ở vào thời điểm cách đây hơn 2.000 năm, khi mà trình độ kĩ thuật chung còn rất thấp kém thì công trình thành Cổ Loa là một biểu tượng rất đáng tự hào của nền văn minh Việt cổ. 3. Cuộc kháng chiến chống Triệu Đà năm 179 TCN, Nhà nước Âu Lạc thất bại ? Diễn biến chính cuộc kháng chiến : Vào năm 207 TCN, nhân lúc nhà Tần suy yếu, Triệu Đà cắt đất ba quận lập thành nước Nam Việt, rồi đem quân đánh xuống Âu Lạc. Quân dân Âu Lạc với thành cao, hào sâu, vũ khí tốt và tinh thần chiến đấu dũng cảm đã giữ vững được nền độc lập. Triệu Đà biết không thể đánh bại được, bèn vờ xin hàng và dùng mưu kế li gián, chia rẽ nội bộ Âu Lạc. Năm 179 TCN, Triệu Đà lại sai quân sang đánh chiếm nước ta, An Dương Vương do chủ quan không đề phòng, lại mất hết tướng giỏi nên bị thất bại nhanh chóng. Nước ta rơi vào ách thống trị của nhà Triệu. Nguyên nhân thất bại của Âu Lạc : Do An Dương Vương chủ quan, thiếu cảnh giác, nội bộ bị chia rẽ, li gián, mất đoàn kết. Nhớ lại Truyện nỏ thần (đơn giản hóa sự thực về âm mưu cướp nước Âu Lạc của Triệu Đà). Chủ đề 3. THỜI KÌ BẮC THUỘC VÀ CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP I. Khái niệm ‘‘thời Bắc thuộc’’ : Thời Bắc thuộc là một khái niệm lịch sử chỉ khoảng thời gian từ sau thất bại của An Dương Vương năm 179 TCN, nước ta bị Triệu Đà thôn tính và sáp nhập vào nước Nam Việt. Từ đó nhân dân ta liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc thống trị cho đến khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 mới kết thúc, tất cả tổng cộng hơn 1.000 năm. II. Chính sách thống trị tàn bạo của phong kiến phương Bắc đối với nước ta : Sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của các triều đại PK phương Bắc, xóa tên nước ta và chia thành các quận huyện của chúng. Tổ chức bộ máy cai trị tàn bạo, hà khắc do người phương Bắc đứng đầu. Ra sức bóc lột dân ta bằng các thứ thuế, nhất là thuế muối, thuế sắt và bắt cống nạp những sản vật quý như ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai Cho người phương Bắc (người Hán) sang ở lẫn với dân ta, bắt dân ta phải từ bỏ những phong tục của cha ông mà tuân theo phong tục tập quán của họ, âm mưu đồng hóa dân tộc ta. Đây là chính sách hết sức thâm độc nhằm làm thay đổi lối sống, văn hóa của một dân tộc khác theo lối sống, văn hóa của dân tộc mình. III. Các triều đại PK phương Bắc đã đô hộ nước ta và các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thời Bắc thuộc : 1. Nhà Triệu (207 - 111 tr.CN) Sau thất bại của An Dương Vương năm 179 TCN, Triệu Đà sáp nhập đất đai Âu Lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. 2. Nhà Tây Hán (còn gọi là Tiền Hán, 206 tr.CN - 25 s.CN) Nhà Tây Hán lấy được Nam Việt vào năm 111 tr.CN, đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ rồi chia ra quận và huyện để cai trị. Đứng đầu mỗi quận là chức Thái Thú và một Đô úy coi việc quân sự, ngoài ra còn có quan Thứ sử để giám sát các quận. 7
  8. Tại các huyện, nhà Tây Hán vẫn cho các Lạc tướng trị dân và có quyền thế tập như cũ. Dân Việt phải nộp cho chính quyền đô hộ những của quý, vật lạ như đồi mồi, ngọc trai, sừng tê, ngà voi, lông chim trả, các thứ thuế muối, thuế sắt. 3. Nhà Đông Hán (còn gọi là Hậu Hán, 25-220)- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) Trước nhà Đông Hán còn có nhà Tần, nhưng triều đại này rất ngắn ngủi, không để lại dấu ấn gì rõ rệt trên đất Việt. Nhà Đông Hán lên thay thế nhà Tần vào năm 25 sau Công Nguyên. Chính dưới triều đại này đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43). Hai Bà là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh (vùng Ba Vì - Tam Đảo). Tương truyền rằng bà Man Thiện, mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn dòng dõi Hùng Vương. Hai bà mồ côi cha sớm, được mẹ nuôi nấng và dạy cho nghề trồng dâu nuôi tằm cùng rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên. Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang cai trị hà khắc nước Việt, viên Thái thú Tô Định là người bạo ngược, tham lam "thấy tiền giương mắt lên". Hai bà cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng Thi Sách bị Tô Định giết chết. Tháng Ba năm 40 sau Công Nguyên, Trưng Trắc và Trưng Nhị tiếp tục sự nghiệp, dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, trên vùng đất Mê Linh với lời thề: "Một xin rửa sạch quốc thù, Hai xin khôi phục nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này" (Thiên Nam ngữ lục) Cuộc khởi nghĩa Mê Linh lập tức được sự hưởng ứng ở khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Các cuộc khởi nghĩa địa phương được quy tụ về đây thống nhất lại thành một phong trào rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi. Đặc biệt trong hàng ngũ nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ như Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn, Nàng Tía, Ả Tắc, Ả Di Từ Mê Linh, nghĩa quân đánh chiếm lại thành Cổ Loa rồi ồ ạt tiến đánh thành Luy Lâu. Hoảng sợ trước khí thế của nghĩa quân, quan lại của nhà Đông Hán bỏ chạy. Tô Định bỏ cả ấn kiếm, cắt tóc, cạo râu trốn chạy về nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai Bà Trưng đã thu phục 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Hai bà lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta" (Đại Nam quốc sử diễn ca) Năm 42, nhà Hán cử Phục Ba tướng quân Mã Viện đem hai vạn quân cùng hai ngàn thuyền, xe sang xâm lược nước Việt. Hai bà đem quân đến đánh quân Hán ở Lãng Bạc nhưng vì lực lượng yếu hơn nên bị thua. Hai bà phải lui về Cẩm Khê (Vĩnh Yên, Vĩnh Phú) và cầm cự gần một năm. Bị bại trận, hai bà chạy về Hát Môn gieo mình xuống sông Hát tự vẫn (43). Hằng năm dân gian lấy ngày 6 - 2 Âm lịch làm ngày kỷ niệm hai Bà Trưng. Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đem đất Giao Chỉ về lệ thuộc lại nhà Đông Hán như cũ đóng phủ trị tại Long Biên. Để đàn áp tinh thần quật khởi của dân Việt, Mã Viện cho thu hết đồ đồng xứ Việt dựng một cột đồng ở chỗ phân địa giới. Trên cột đồng có khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong. Có thuyết cho rằng, do dân Việt cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy. Các chức Thái thú, Thứ sử vẫn được duy trì nhưng chế độ Lạc tướng cha truyền con nối bị bãi bỏ. Chính sách cai trị của người Hán ngày càng hà khắc, quan cai trị tham nhũng tàn ác. Dân Việt cực khổ điêu đứng, lên rừng kiếm châu báu, xuống bể mò ngọc trai để cung phụng cho chính quyền đô hộ. Dân quận Hợp Phố chịu nặng nề cảnh mò ngọc nên bỏ xứ đi phiêu tán rất nhiều. Nhà Hán chủ trương đồng hóa dân Việt. Họ cho di dân Hán sang ở lẫn với dân Việt, lấy vợ Việt. Tuy thế người Việt vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình. Đến đầu thế kỷ thứ ba, Giao Chỉ có Thái thú Sĩ Nhiếp, là người tôn trọng Nho học, giúp dân giữ lễ nghĩa và giữ gìn được an ninh xã hội. Vào năm 203, Sĩ Nhiếp dâng sớ lên vua nhà Đông Hán, xin đổi Giao Chỉ thành Giao Châu. Từ đấy có tên Giao Châu. 4. Nhà Đông Ngô (thời Tam Quốc, 229-280)- Cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (248) Nhà Đông Hán mất ngôi thì nước Trung Hoa lâm vào tình trạng phân liệt của thời Tam Quốc, gồm có ba nước là Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu thuộc về Đông Ngô. Chính dưới chế độ này đã xảy ra cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (248). 8
  9. Hai thế kỷ sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (còn gọi là Triệu Thị Trinh) cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một Hào trưởng lớn ở miền núi thuộc quận Cửu Chân. Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và có chí khí, Bà vẫn thường nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp đường sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta". Bà theo anh khởi nghĩa lúc mới 19 tuổi, lập căn cứ tại vùng Thanh Hóa ngày nay. Năm 248, nghĩa quân tấn công quân Ngô, Bà Triệu đem quân ra trận cưỡi voi, mặc áo giáp vàng tự xưng là Nhụy Kiều tướng quân. Nghĩa quân đánh phá nhiều thành quách làm đối phương phải khiếp sợ. Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân đàn áp. Đánh nhau trong sáu tháng, nghĩa quân mai một dần. Bà Triệu đem tàn quân đến núi Tùng (Thanh Hóa) và tự sát ở đấy. Vào năm 264, nhà Ngô chia đất Giao Châu ra, lấy Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt trị sở ở Long Biên. Đất Giao Châu này là lãnh thổ của Việt Nam về sau. 5. Nhà Tấn (265-460) và Nam Triều (Tống, Tề, Lương, 420-588) cuộc khởi nghĩa Lý Bí (542 - 602). Nhà Tấn là một triều đại không được ổn định vì nhiều thân vương cát cứ tại các địa phương đánh nhau liên tục. Quan lại sang cai trị Giao Châu phần nhiều là người tham lam, cộng vào đó là sự kiểm soát lỏng lẻo của chính quyền trung ương, tạo nên cảnh tranh giành quyền lực không ngớt. Phía Nam lại có nước Lâm Ấp thường sang quấy nhiễu. Đất Giao Châu loạn lạc không dứt. Sau thời nhà Tấn, Trung Hoa lại phân liệt ra thành Bắc triều và Nam triều. Giao Châu phụ thuộc vào Nam triều trải qua các nhà Tống, Tề, Lương. Vào nửa đầu thế kỷ thứ 6, đất Giao Châu nằm dưới sự thống trị của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư, nổi tiếng tham lam, tàn ác. Có được một cây dâu cao một thước, người dân cũng phải đóng thuế. Thậm chí có người nghèo khổ, phải bán vợ, đợ con, nhưng cũng phải đóng thuế. Lý Bí, một người quê ở huyện Thái Bình (không phải thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay mà là vùng Bắc Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội) đứng lên chiêu tập dân chúng. Ông đã từng giữ một chức quan nhỏ với nhà Lương, cố gắng giúp đỡ những ai bị hà hiếp, nhưng không làm được việc gì đáng kể, bèn bỏ quan trở về quê nhà và cùng người anh là Lý Thiên Bảo mưu khởi nghĩa. Ông được nhiều người theo. Trong đó có Thủ lĩnh đất Chu Diên (vùng Đan Phượng-Từ Liêm, thuộc Hà Tây và ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục (?-571) đem lực lượng của mình theo về. Ngoài ra còn có những nhân vật nổi tiếng khác cũng kéo đến giúp sức như Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man Mùa xuân năm 542, Lý Bí tiến quân vây thành Long Biên. Quân Lương đầu hàng còn Tiêu Tư thì trốn thoát về được Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa thành công. Vua nhà Lương vội đưa quân sang nhưng bị đánh bại. Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là Thiên Đức, Lý Nam Đế đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Xuân để vua quan có nơi hội họp. Nhà vua còn cho dựng chùa Khai Quốc (sau này là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội). Năm 545, nhà Lương sai một tướng tài là Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Vạn Xuân. Lý Nam Đế cùng các tướng sĩ chống không được, phải về vùng rừng núi Vĩnh Phú cố thủ; lấy hồ Điền Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú) làm nơi thao luyện quân lính. Chẳng bao lâu, lực lượng trở nên mạnh mẽ. Trần Bá Tiên nhiều lần đem quân đánh phá nhưng không được. Về sau, nhân một cơn lũ dữ dội tràn vào vùng căn cứ, Trần Bá Tiên theo dòng lũ, thúc quân tiến đánh, Lý Nam Đế phải rút về động Khuất Lão (còn gọi là động Khuất Liêu, là tên một khu đồi hiện nằm bên hữu ngạn sông Hồng, ở giữa hai xã Văn Lang và Cổ Tiết thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phúc). Sau nhiều năm lao lực, Lý Nam Đế bị bệnh mù mắt, giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục và mất vào năm 548. Triệu Quang Phục đánh nhau mấy lần với Trần Bá Tiên nhưng đều thất bại, bèn lấy đầm Dạ Trạch (Hải Hưng) làm căn cứ. Đầm Dạ Trạch nằm ven sông Hồng, chu vi không biết là bao nhiêu dặm. Giữa đầm có một bãi đất cứng. Ngoài ra, bốn bề là bùn lầy, người ngựa không thể nào đi được, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, lấy sào đẩy trên cỏ, nước mà di chuyển. Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi và áp dụng kế "trì cửu", tức là đánh lâu dài làm tiêu hao lực lượng của địch quân. Căn cứ địa được giữ hoàn toàn bí mật, ban ngày im hơi, không nấu nướng, ban đêm đột kích ra đánh phá trại địch. Vì thế dân chúng tôn xưng ông là Dạ Trạch Vương. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Năm 550, nhân lúc nhà Lương suy yếu, Triệu Quang Phục kéo quân về chiếm thành Long Biên, làm chủ được đất nước. 9
  10. Đến năm 557, Lý Phật Tử, một người cùng họ với Lý Nam Đế, đem quân đánh và đòi chia hai đất nước cùng Triệu Việt Vương. Để tránh cảnh chiến tranh, Triệu Việt Vương đành chấp thuận, nhưng bất ngờ bị Lý Phật Tử đánh úp, chạy đến cửa biển Đại Nha (Hà Nam Ninh) gieo mình xuống biển tự tử. Năm 571; Lý Phật Tử chiếm cả nước. Sau khi lấy được thành Long Biên, Lý Phật Tử xưng đế hiệu là Lý Nam Đế. Để phân biệt Lý Phật Tử với Lý Bí, sử sách gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế (571-602). Trong khi ấy nhà Tùy (589-618) đã thống nhất và ổn định được nước Trung Hoa. Vua nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân sang đánh Vạn Xuân. Lưu Phương không cần dụng binh, cho người đi chiêu hàng được Lý Phật Tử. Từ đấy Vạn Xuân trở thành Giao Châu của nhà Tùy. 6. Nhà Đường (618-907)-Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722) và của Phùng Hưng (trong khoảng 766-779) Nhà Tùy làm chủ nước Trung Hoa chỉ được 28 năm thì bị nhà Đường lật đổ vào năm 618. Nhà Đường cai trị Giao Châu cay nghiệt nhất trong các chính quyền đô hộ. Những sản vật quý giá của Giao Châu bị vơ vét đưa về phương Bắc. Trong số đó, có quả vải là lại trái cây mà giới quyền quý nhà Đường rất ưa chuộng. Về mặt chính trị, nhà Đường sửa lại toàn bộ chế độ hành chính, phân chia lại châu quận, đổi Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ, chia ra làm 12 châu, 59 huyện. Dưới đời nhà Đường, dân Việt liên tiếp nổi dậy, hai cuộc khởi nghĩa có tính chất rộng lớn nhất là của Mai Thúc Loan và của Phùng Hưng. Mai Thúc Loan quê ở làng muối Mai Phụ, thuộc huyện Thiên Lộc, Châu Hoan (Hà Tĩnh ngày nay). Thuở nhỏ, nhà nghèo, Mai Thúc Loan theo mẹ sống ở làng Ngọc Trừng, huyện Nam Đàn. Ông là người mạnh khỏe, có nước da đen bóng. Năm 722, nhân dịp dân phu gánh vải sang cống cho nhà Đường, bị hành hạ, nhiều người bỏ xác dọc đường, lòng oán thán dâng cao, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu gánh quả vải nổi lên giết quan quân áp tải và cùng ông phất cờ khởi nghĩa. Mai Thúc Loan chọn vùng Sa Nam (Nghệ An), một vùng hiểm trở có sông Lam rộng và núi Đụn cheo leo làm căn cứ. Tại đây ông cho xây thành Vạn An, gồm nhiều đồn lũy, dài cả ngàn mét. Ông xưng đế, lấy thành Vạn An làm Kinh đô. Ông thường được gọi là Mai Hắc Đế (vua Đen họ Mai) vì nước da đen của ông. Để lập thành một mặt trận liên hoàn chống quân Đường, Mai Hắc Đế liên kết với các nước Cham-pa, Chân Lạp và cả Ma-lai-xi-a. Sau khi quy tụ được nhiều lực lượng, Mai Hắc Đế cho quân tiến ra đồng bằng Bắc bộ, vây đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Quan đô hộ là Quang Sở Khách chống không lại, bỏ thành chạy trốn. Mai Hắc Đế giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng được ít lâu, nhà Đường sai Dương Tu Húc đem 10 vạn quân, theo lộ trình xưa của Mã Viện, chớp nhoáng tiến vào đất Việt, thình lình tấn công bản doanh của Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế chống không lại, phải vào rừng cố thủ. Ông bị bệnh và chết ở đấy. Quân Đường, sau khi thắng trận, đem dân Việt ra giết vô số. Thây người không kịp chôn, chất cao thành gò. Tuy thắng được Mai Hắc Đế và vẫn còn ham thích quả vải của đất Việt, nhưng nhà Đường không còn dám bắt dân Việt cống quả vải nữa. Để nhớ ơn của Mai Hắc Đế, dân gian có câu truyền tụng: "Cống vải từ nay Đường phải dứt Dân nước đời đời hưởng phước chung". Hơn 40 năm sau cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế là cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Phùng Hưng vốn gia đình giàu có ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây), thuộc dòng dõi Quan Lang. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng có hai người em cùng sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả ba anh em đều có sức khỏe hơn người, tay không bắt được hổ. Vào khoảng năm 767, anh em họ Phùng phất cờ khởi nghĩa. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo còn Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng. Họ đặt đại bản doanh tại Đường Lâm. Hào kiệt theo về rất đông. Họ làm chủ cả miền trung du và miền núi Bắc Bộ. Vài năm sau, thấy lực lượng đã mạnh, Phùng Hưng cho quân tiến vây thành Tống Bình. Theo kế của Đỗ Anh Hàn, cũng người xã Đường Lâm, Phùng Hưng cho người đi khắp nơi, phao lên là sắp lấy được thành Tống Bình, đồng thời tiến hành vây thành rất ngặt. Cứ đến đêm, quân khởi nghĩa nổi lửa, đánh chiêng, đánh trống, reo hò ầm ĩ để uy hiếp tinh thần đối phương. Quan Đô hộ là Cao Chính Bình lo sợ đổ bệnh rồi chết. Phùng Hưng chiếm được thành, đem lại độc lập cho đất nước. Phùng Hưng cai trị đất nước trong bảy năm thì mất. Dân chúng vô cùng thương tiếc, tôn ông là danh hiệu là “Bố Cái Đại Vương”. "Bố" có nghĩa là cha, "Cái" có nghĩa là mẹ, ví công ơn của Phùng Hưng đối 10
  11. với Tổ quốc như công ơn của cha mẹ đối với con cái. Dân chúng lập đền thờ ông ở ngay xã Đường Lâm. Không những được thờ ở quê nhà, Bố Cái Đại Vương còn được thờ tại làng Triều Khúc. Ở đây ông được thờ làm Thành hoàng tại ngôi đình Lớn. Hằng năm đều có lễ hội tưởng nhớ đến chiến công của ông. Sau khi Phùng Hưng mất, nội bộ thân thuộc của ông không giữ được sự đoàn kết. Dân chúng muốn tôn Phùng Hải lên nối nghiệp, nhưng có một tướng là Bồ Phá Lạc, là người vũ dũng và có nhiều thuộc hạ, không đồng ý, muốn lập con của Phùng Hưng là Phùng An lên. Bồ Phá Lạc đem quân chống lại Phùng Hải. Phùng Hải tránh giao tranh, lui về vùng rừng núi, rồi sau đó đi đâu, chẳng ai rõ, Phùng An lên nối nghiệp. Chẳng bao lâu, nhà Đường sai Triệu Xương đem quân sang, vừa đánh vừa chiêu dụ. Thấy thế không chống được, Phùng An phải đầu hàng. Xứ Giao Châu lại lệ thuộc nhà Đường lần nữa. IV. Quá trình phát triển kinh tế, sự phân hóa xã hội, sự truyền bá văn hóa phương Bắc và cuộc đấu tranh gìn giữ văn hóa dân tộc thời Bắc thuộc đã diễn ra như thế nào? Về kinh tế : Mặc dù bị phong kiến phương Bắc đô hộ và cai trị, bóc lột tàn bạo, tình hình kinh tế nước ta vẫn có những bước phát triển đáng kể từ công nghiệp đến nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Về công nghiệp, tuy còn hạn chế về kĩ thuật, nhưng nghề sắt vẫn phát triển : các công cụ như rìu, mai, cuốc, dao ; vũ khí như kiếm, giáo, mác làm bằng sắt vẫn được chế tác và sử dụng phổ biến. Về nông nghiệp, nhân dân ta đã biết đắp đê phòng lụt, dùng sức kéo trâu, bò, trồng lúa hai vụ một năm và tiếp tục nghề trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi các loại gia súc lấy thịt và sức kéo, phân bón. Các nghề thủ công truyền thống như nghề gốm, nghề dệt vẫn được phát triển. Về thương nghệp, các sản phẩm nông nghiệp và thủ công không bị sung làm đồ cống nạp mà được mua bán, trao đổi ở các chợ làng. Chính quyền đô hộ giữ độc quyền về ngoại thương. Sự phân hóa xã hội : Xã hội có sự thay đổi và phân hóa sâu sắc. theo sơ đồ sau: Thời Văn Lang - Âu Lạc Thời kì bị PK phương Bắc đô hộ Vua Quan lại đô hộ người Hán Quý tộc Hào trưởng người Việt, địa chủ người Hán Nông dân công xã Nông dân công xã, nông dân lệ thuộc Nô tì Nô tì Các triều đại PK phương Bắc tổ chức bộ máy cai trị do người Hán nắm giữ mọi quyền hành (từ Thứ Sử, Thái Thú đến Đô Úy, Huyện lệnh). Tại các huyện, nhà Tây Hán vẫn cho các Lạc tướng trị dân và có quyền thế tập như cũ. Đưa người phương Bắc (Hán) sang ở lẫn với dân ta, bắt dân ta phải theo phong tục tập quán của họ. Trong tầng lớp quý tộc ngoài hào trưởng người Việt nay xuất hiện thêm các địa chủ người Hán. Ngoài nông dân công xã, nay có thêm tầng lớp nông dân lệ thuộc (là những nông dân bị địa chủ cướp hết ruộng đất phải lệ thuộc và làm thuê cho chúng). Tầng lớp nô tì ngày càng đông thêm do chính sách cai trị, bóc lột và cướp đoạt ruộng đất của bọn quan lại, địa chủ người Hán. Sự truyền bá văn hóa phương Bắc (Hán) và cuộc đấu tranh gìn giữ văn hóa dân tộc : Chính quyền đô hộ mở một số trường học dạy chữ Hán tại các quận, huyện và tiến hành du nhập Nho giáo, Đạo giáo và những luật lệ, phong tục của người Hán vào nước ta. Nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh bảo vệ tiếng nói, chữ viết, phong tục và nếp sống của dân tộc ; đồng thời cũng tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa Trung Quốc và các nước khác nhằm gìn giữ bản sắc và làm phong phú thêm nền văn hóa của mình. Chủ đề 4. BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ Ở ĐẦU THẾ KỈ X Họ Khúc đặt nền móng tự trị (906-923) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng (938) Đến cuối đời nhà Đường, tình hình xáo trộn của Trung Hoa tạo thời cơ cho Khúc Thừa Dụ xây nền tự chủ (906), đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ kéo dài cả ngàn năm. (Khúc Thừa Dụ 906-907 ; Khúc Hạo 907-917 ; Khúc Thừa Mỹ 917-930 ; Dương Đình Nghệ 931-937). 11
  12. Vào đầu thế kỉ thứ 10, nhà Đường trở nên suy yếu. Lợi dụng thời cơ này, Khúc Thừa Dụ (?-907), một hào trưởng cư trú lâu đời ở Hồng Châu (Hải Hưng) nổi lên, tự xưng là Tiết độ sứ (906). Nhà Đường bắt buộc phải công nhận sự việc ấy và còn phong thêm tước "Đồng binh Chương sự" cho ông nữa. Sử cũ chép rằng Khúc Thừa Dụ tính tình khoan hòa, nhân ái nên được nhiều người theo về. Nhà Đường, dù trên danh nghĩa, phong tước và công nhận Khúc Thừa Dụ, nhưng thực chất là không thể kiểm soát được đất Giao Châu nữa. Khúc Thừa Dụ làm chủ đất nước, xây dựng chính quyền tự chủ, khởi đầu cho nền độc lập của nước nhà. Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ một năm thì mất, con là Khúc Hạo lên nối nghiệp cha được mười năm (907-917). Trong mười năm này, Khúc Thừa Hạo cho sửa đổi các khu vực hành chính, cắt đặt người trông coi mọi việc cho đến tận đơn vị xã, định lại mức thuế ruộng đất và miễn bỏ các lao dịch nặng nề. Trong khi ấy, tại Trung Hoa, một Tiết độ sứ họ Lưu chiếm lấy vùng Quảng Châu, lập nên nước Nam Hán. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối chức Tiết độ sứ. Khúc Thừa Mỹ giao hảo cùng nhà Lương (đã thay nhà Đường làm chủ Trung Hoa). Vua Nam Hán lấy cớ ấy cho quân sang đánh họ Khúc. Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, bị bắt đưa về Quảng Châu (930). Quân Nam Hán chiếm đóng thành Đại La. Kế tục sự nghiệp của họ Khúc là Dương Đình Nghệ (?-937), một người làm quan dưới đời Khúc Thừa Mỹ. Sau khi Khúc Thừa Mỹ bị bắt, Dương Đình Nghệ dấy binh ở làng Ràng (Dương xá, Thanh Hóa), vốn là quê của ông. Các hào trưởng như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ đem lực lượng của mình gia nhập hàng ngũ của Dương Đình Nghệ. Năm 931, Dương Đình Nghệ tiến quân đánh thành Đại La, Thứ sử Giao Châu là Lý Tiến chống không lại, chạy về Quảng Châu (Trung Hoa) thì bị vua Nam Hán giết chết. Một toán quân Nam Hán được cử sang để đàn áp quân của Dương Đình Nghệ, nhưng bị đánh tan, phải bỏ chạy về Trung Hoa. Thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ. Cai quản đất nước được sáu năm thì Dương Đình Nghệ bị một thuộc tướng là Kiều Công Tiễn sát hại. Ngô Quyền (897-944), tướng tài và đồng thời là con rể của Dương Đình Nghệ, đang cai quản Châu Ái, đem quân đi trừng phạt Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền là người cùng quê với Phùng Hưng, xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây), đã từng theo Dương Đình Nghệ từ buổi ban đầu và có uy tín lớn với dân chúng. Trước sự tiến công của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn lo sợ, vội vàng đi cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán nắm cơ hội thực hiện mộng xâm lăng, bèn phong cho con là Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ, sai đem thủy quân đi trước còn bản thân mình sẽ theo đường bộ tiếp ứng. Năm 938, Ngô Quyền chiếm được thành Đại La, bắt được Kiều Công Tiễn và đem bêu đầu trên thành. Dù biết tin Kiều Công Tiễn đã bị giết chết và Ngô Quyền đã làm chủ thành Đại La, quân Nam Hán vẫn tiến công. Ngô Quyền bèn bày thế trận thủy chiến, cho cắm cọc trên sông Bạch Đằng, chờ địch. Tháng 12 năm ấy, Hoằng Tháo đem thủy binh tiến ồ ạt vào sông Bạch Đằng. Nhân lúc triều cường, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra đánh, nhử quân Hoằng Tháo lọt qua trận địa cọc ngầm đã đóng sẵn xuống lòng sông. Khi thủy triều xuống mạnh, trận địa cọc ngầm nổi lên, Ngô Quyền thúc đại quân ra đánh. Chiến thuyền của Nam Hán nặng nề, không thoát được, bị cọc đâm vỡ rất nhiều. Hoằng Tháo bị giết tại trận, toàn bộ đội thủy quân bị tiêu diệt. Vua Nam Hán nghe tin bại trận và tin Hoằng Tháo bị giết chết, thương khóc thảm thiết rồi rút về nước. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt hoàn toàn ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, khẳng định nền độc lập lâu dài của tổ quốc. Đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Vương đặt ra các chức quan văn võ, qui định triều nghi, lập bộ máy chính quyền mang tính chất tập quyền. LỚP 7 KHÁI QUÁT LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI Chủ đề 1 XÃ HỘI PHONG KIẾN CHÂU ÂU (PHƯƠNG TÂY) 1. Trình bày sự hình thành xã hội PK châu Âu ? Cuối thế kỉ V, người Giéc-man xâm chiếm, tiêu diệt các quốc gia cổ đại phương Tây, thành lập nhiều vương quốc mới : Ăng-glô Xắc-xông, Phơ-răng, Tây Gốt, Đông Gốt 12
  13. Trên lãnh thổ Rô-ma, người Giéc-man đã chiếm ruộng đất của chủ nô, đem chia cho nhau; phong cho các tướng lĩnh, quý tộc các tước vị như: công tước, hầu tước Những việc làm của người Giéc-man đã tác động đến xã hội, dẫn tới sự hình thành các tầng lớp mới: - Lãnh chúa phong kiến: là các tướng lĩnh và quý tộc có nhiều ruộng đất và tước vị, có quyền thế và rất giàu có. - Nông nô: là những nô lệ được giải phóng và nông dân, không có ruộng đất, làm thuê, phụ thuộc vào lãnh chúa. Từ những biến đổi trên đã dẫn tới sự ra đời của xã hội PK châu Âu. 2. Em biết gì về các lãnh địa của các lãnh chúa phong kiến? Lãnh địa PK là khu đất rộng, trở thành vùng đất riêng của lãnh chúa PK - như một vương quốc thu nhỏ. Lãnh địa gồm có đất đai, dinh thự với tường cao, hào sâu, kho tàng, đồng cỏ, đầm lầy của lãnh chúa. Nông nô nhận đất canh tác của lãnh chúa và nộp tô thuế, ngoài ra còn phải nộp nhiều thứ thuế khác. Lãnh chúa bóc lột nông nô, họ không phải lao động, sống sung sướng, xa hoa. Đặc trưng cơ bản của lãnh địa: là đơn vị kinh tế, chính trị độc lập mang tính tự cung, tự cấp, đóng kín của một lãnh chúa. 3. Em biết gì về các thành thị trung đại trong xã hội PK châu Âu ? Nguyên nhân ra đời của các thành thị trung đại là do : - Vào thời kì PK phân quyền: các lãnh địa đều đóng kín, không có trao đổi, buôn bán, giao thương với bên ngoài. - Từ cuối thế kỉ XI, do sản xuất thủ công phát triển, thợ thủ công đã đem hàng hóa ra những nơi đông người để trao đổi, buôn bán, lập xưởng sản xuất. - Từ đấy hình thành các thị trấn rồi phát triển thành thành phố, gọi là thành thị trung đại. Hoạt động và vai trò của các thành thị trung đại : Cư dân chủ yếu của thành thị là thợ thủ công và thương nhân, họ lập ra các phường hội, thương hội để cùng nhau sản xuất và buôn bán. Hoạt động trên của các thành thị trung đại đã có vai trò thúc đẩy sản xuất, làm cho xã hội PK phát triển. 4. Chủ nghĩa tư bản ở châu Âu được hình thành như thế nào ? Từ cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, do nhu cầu phát triển sản xuất cùng những tiến bộ về kĩ thuật hàng hải như: la bàn, hải đồ, kĩ thuật đóng tàu đã thúc đẩy những cuộc phát kiến lớn về địa lí như: B. Đi-a-xơ đến cực Nam châu Phi (1487) ; Va-xcô đơ Ga-ma đến Tây Nam Ấn Độ (1498) ; C. Cô-lôm- bô tìm ra châu Mĩ (1492) ; Ph. Ma-gien-lăng đi vòng quanh trái đất (1519 - 1522). Các cuộc phát kiến địa lí đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển, đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho những quý tộc, thương nhân. Đó là quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy (tạo ra số vốn đầu tiên và những người lao động làm thuê). Tầng lớp này trở nên giàu có nhờ cướp bóc của cải, tài nguyên và buôn bán, trao đổi ở các nước thuộc địa. Họ mở rộng sản xuất, kinh doanh, lập đồn điền, bóc lột sức lao động người làm thuê, giai cấp tư sản ra đời. Cùng đó là giai cấp vô sản được hình thành từ những người nông nô bị tước đoạt ruộng đất, buộc phải vào làm thuê trong các xí nghiệp của tư sản. Từ những tiền đề và điều kiện vừa nêu trên, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành, ra đời ngay trong lòng xã hội phong kiến châu Âu. 5. Em hiểu gì về phong trào Văn hóa Phục hưng ? Vào cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, do sự kìm hãm, vùi dập của chế độ phong kiến đối với các giá trị văn hóa. Sự lớn mạnh của giai cấp tư sản có thế lực về kinh tế nhưng không có địa vị chính trị, xã hội nên đấu tranh giành địa vị chính trị, xã hội, mở đầu bằng cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa. Cuộc đấu tranh đó phát triển thành “phong trào Văn hóa Phục hưng” : Đó là sự phục hưng những tinh hoa giá trị tinh thần của nền văn hóa cổ Hi Lạp và Rô-ma, đồng thời phát triển nó ở tầm cao hơn (sáng tạo nền văn hóa mới của giai cấp tư sản). Phong trào diễn ra với các nội dung: lên án nghiêm khắc Giáo hội Ki-tô, đả phá trật tự xã hội phong kiến ; đề cao những giá trị con người, đề cao khoa học tự nhiên, xây dựng thế giới quan duy vật. Có thể kể tên những nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa tiêu biểu như : nhà thiên văn học Cô-péc-ních, nhà toán học và triết học xuất sắc R. Đê-các-tơ, họa sĩ Lê-ô-na đơ Vanh-xi, nhà soạn kịch U. Sếch-xpia Phong trào Văn hóa Phục hưng đã có ý nghĩa thức tỉnh và phát động quần chúng đấu tranh chống lại xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu ; đồng thời mở đường cho sự phát triển văn hóa ở một tầm cao mới của châu Âu và nhân loại. 13
  14. Chủ đề 2. XÃ HỘI PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG 1. So sánh quá trình hình thành và phát triển của xã hội PK ở các nước phương Đông và phương Tây để rút ra những điểm khác biệt ? Xã hội PK phương Đông : - Hình thành sớm, vào thời kì trước CN (như Trung Quốc), phát triển chậm, mức độ tập quyền cao hơn so với xã hội PK phương Tây. - Quá trình khủng hoảng, suy vong kéo dài và sau này rơi vào tình trạng lệ thuộc hoặc trở thành thuộc địa của CNTB phương Tây. Xã hội PK phương Tây : - Ra đời muộn (thế kỉ V), nhưng phát triển nhanh. - Xuất hiện CNTB trong lòng chế độ PK. - Lúc đầu quyền lực của nhà vua bị hạn chế trong lãnh địa, mãi đến thế kỉ XV khi các quốc gia PK thống nhất, quyền lực mới tập trung trong tay nhà vua. 2. Trình bày những nét chính về cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ PK ? Cơ sở kinh tế chủ yếu của chế độ PK là sản xuất nông nghiệp, kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công. Sản xuất nông nghiệp đóng kín ở các công xã nông thôn (phương Đông) hay các lãnh địa (phương Tây). Tư liệu sản xuất, ruộng đất nằm trong tay lãnh chúa hay địa chủ, giao cho nông dân hay nông nô sản xuất. Xã hội gồm hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân lĩnh canh (phương Đông), lãnh chúa phong kiến và nông nô (phương Tây). Địa chủ, lãnh chúa bóc lột nông dân và nông nô bằng địa tô. Riêng ở xã hội PK phương Tây, từ thế kỉ XI, công thương nghiệp phát triển mạnh. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XIX Chủ đề 3. BUỔI ĐẦU ĐỘC LẬP THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ (Thế kỉ X) I. Những nét chính về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của buổi đầu độc lập thời Ngô - Đinh - Tiền Lê ? A. Về chính trị : 1. Nhà Ngô (939-965) Ngô Vương 938-944 ; Dương Bình Vương 945-950 ; Hậu Ngô Vương 951-965 Đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Vương đặt ra các chức quan văn võ, qui định triều nghi, lập bộ máy chính quyền mang tính chất tập quyền. Ngô Quyền chỉ ở ngôi được sáu năm. Lúc sắp mất, Ngô Quyền đem con là Ngô Xương Ngập ủy thác cho người em vợ là Dương Tam Kha. Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ, em của bà Dương Hậu. Nhưng khi Ngô Quyền mất rồi. Dương Tam Kha phản bội lòng tin của Ngô Quyền, cướp lấy ngôi, tự xưng là Bình Vương (945-950). Ngô Xương Ngập phải chạy trốn vào núi. Dương Tam Kha bèn bắt người con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Ngô Xương Văn, trong một dịp đi hành quân dẹp loạn, đem quân trở ngược lại bắt được Dương Tam Kha, giáng Kha xuống bậc công. Ngô Xương Văn xưng vương và cho người đi rước anh về cùng làm vua. Không bao lâu Ngô Xương Ngập bệnh chết (954). Thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu, khắp nơi loạn lạc. Trong một chuyến đi dẹp loạn (965), Xương Văn bị trúng tên chết. Kể từ đấy, nhà Ngô không còn là một thế lực trung tâm của đất nước nữa. Con của Xương Văn là Ngô Xương Xí trở thành một trong 12 sứ quân. Từ đó đất nước trải qua một thời kỳ nội chiến tranh quyền khốc liệt mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân. Sau nhờ Đinh Bộ Lĩnh (924-979) đánh thắng tất cả các sứ quân, đất nước mới thoát cảnh nội chiến. 2. Nhà Đinh (968-980) - Đại Cồ Việt Đinh Tiên Hoàng 968-979 ; Đinh Tuệ (Đinh Toàn) 980 Sau khi dẹp tan loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình). 14
  15. Đồng thời với gian đoạn này, ở Trung Hoa, nhà Tống làm chủ đất nước và tiêu diệt nước Nam Hán (970). Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang thông hiếu. Đến năm 972 nhà vua sai Đinh Liễn đem quà sang cống. Vua Tống bèn phong cho Đinh Tiên Hoàng làm An Nam Quận vương và Đinh Liễn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ. Đinh Tiên Hoàng đặt ra những luật lệ hình phạt nặng nề như bỏ phạm nhân vào dầu hay cho hổ báo xé xác. Quân đội dưới thời Đinh Tiên Hoàng đã được tổ chức chặt chẽ, phân ra làm các đơn vị như sau: Đạo = 10 quân; Quân = 10 lữ ; Lữ = 10 tốt; Tốt = 10 ngũ ; Ngũ = 10 người. Năm 979, nhân lúc Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn say rượu, nằm ở sân điện, một tên quan hầu là Đỗ Thích giết chết cả hai. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết chết, đình thần tìm bắt được Đỗ Thích và đem giết chết đi rồi tôn người con nhỏ là Đinh Tuệ (Đinh Toàn), mới sáu tuổi lên làm vua. Quyền bính ở cả trong tay Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn. Lê Hoàn lại có quan hệ chặt chẽ với người vợ góa của Đinh Tiên Hoàng là Dương Thái Hậu nên uy thế rất lừng lẫy. Các công thần cũ của Đinh Bộ Lĩnh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem quân vây đánh Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn tiêu diệt và giết cả. 3. Nhà Tiền Lê (980-1009) Lê Đại Hành 980-1005 ; Lê Long Việt 1005 ; Lê Long Đĩnh 1005-1009 Nhà Tống lợi dụng sự rối ren trong triều nhà Đinh, chuẩn bị cho quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Thái hậu Dương Vân Nga trao long cổn (áo bào của vua Đinh Tiên Hoàng - tượng trưng cho uy quyền của nhà vua) cho Lê Hoàn và cùng quan lại, quân lính tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê. Để có thời gian chuẩn bị, nhà vua phái sứ giả qua xin hòa hoãn cùng nhà Tống. Đồng thời nhà vua gấp rút bày binh bố trận. Đầu năm 981, quân Tống theo hai đường thủy bộ, vào đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành một mặt cho quân chặn đánh toán quân bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Hầu Nhân Bảo, cầm đầu toán quân bộ, mắc mưu trá hàng của Lê Hoàn, bị chém chết; quân sĩ bị diệt quá nửa, tan rã. Toán quân thủy bị chặn ở Bạch Đằng, nghe tin thất bại, bèn tháo chạy về nước. Dù chiến thắng, Lê Đại Hành vẫn giữ đường lối hòa hoãn, cho thả các tù binh về nước, đồng thời cho người sang nhà Tống xin triều cống. Thấy thế không thắng được Lê Đại Hành, vua Tống đành chấp thuận, phong cho ông làm Tiết độ sứ. Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất thắng lợi đã biểu thị ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của quân dân ta; chứng tỏ bước phát triển mới của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt. Không còn lo lắng việc chống Tống nữa, Lê Đại Hành sửa sang mọi việc trong nước. Ông mở mang kinh đô Hoa Lư, củng cố bộ máy chính quyền trung ương, sắp xếp các đơn vị hành chính. Để khuyến khích hoạt động nông nghiệp, Lê Đại Hành làm lễ cày ruộng Tịch điền, mở đầu cho tục lệ này ở đất nước. Về đối ngoại, nhà vua tuy thần phục nhà Tống và chịu lệ cống, nhưng hoàn toàn không lệ thuộc gì cả. Lê Hoàn làm vua được 24 năm, mất năm 1005, thọ 65 tuổi. Sau khi Lê Đại Hành mất, Thái tử Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh sai người giết chết. Các hoàng tử đánh nhau trong 8 tháng để tranh ngôi. Cuối cùng Lê Long Đĩnh diệt được các hoàng tử khác và lên ngôi vua cai trị đất nước. Lê Long Đĩnh là người hoang dâm, không thiết gì việc xây dựng đất nước, chỉ lo đến việc ăn chơi. Do bị bệnh hoạn, mỗi khi thiết triều, Lê Long Đĩnh không thể ngồi được mà phải nằm, nên sử sách gọi ông ta là Lê Ngọa Triều. Lê Long Đĩnh lại rất tàn ác, đặt ra nhiều hình phạt dã man để mua vui. Lê Long Đĩnh ở ngôi 4 năm (1005-1009) thì chết. Triều đình đưa người dòng họ khác là Lý Công Uẩn lên ngôi vua. B. Về kinh tế: Thời kì này, quyền sở hữu ruộng đất nói chung thuộc về làng xã, theo tập tục chia nhau cày cấy, nộp thuế, đi lính và làm lao dịch cho nhà vua. Việc đào vét kênh mương, khai khẩn đất hoang được chú trọng, nên nông nghiệp ổn định và bước đầu phát triển; nghề trồng dâu tằm cũng được khuyến khích; nhiều năm được mùa. Đã xây dựng một số công trường thủ công: từ thời Đinh đã có những xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, may mũ áo xây cung điện, chùa chiền. Các nghề thủ công truyền thống cũng phát triển như dệt lụa, làm gốm. 15
  16. Nhiều trung tâm buôn bán và chợ làng quê được hình thành. Nhân dân hai nước Việt - Tống thường qua lại trao đổi hàng hóa ở vùng biên giới. Tóm lại, thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, nước ta đã bước đầu xây dựng nền kinh tế tự chủ trong điều kiện đất nước đã độc lập, các triều vua đã có một số biện pháp khuyến nông như đào vét kênh, vua tổ chức lễ cày Tịch điền; về thủ công nghiệp, các thợ lành nghề không còn bị bắt đưa sang Trung Quốc nên kinh tế đã có sự phát triển. C. Về văn hóa xã hội: Xã hội chia thành 3 tầng lớp: tầng lớp thống trị gồm vua, quan văn võ (cùng một số nhà sư); tầng lớp bị trị mà đa số là nông dân tự do, cày ruộng công làng xã; tầng lớp cuối cùng là nô tì (số lượng không nhiều). Nho học chưa tạo được ảnh hưởng, giáo dục chưa phát triển. Đạo Phật được truyền bá rộng rãi, chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhà sư được nhân dân quý trọng. Nhiều loại hình văn hóa dân gian như ca hát, nhảy múa, đua thuyền tồn tại và phát triển trong thời gian này. II. Trình bày ngắn gọn công lao của các vị anh hùng dân tộc: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn? Ngô Quyền: Người tổ chức và lãnh đạo quân dân ta làm nên chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938. Đó là một chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta, kết thúc ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc đối với nước ta, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự chủ của đất nước. Ngô Quyền xưng vương, đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, đã khẳng định nước ta có giang sơn, bờ cõi riêng, do người Việt làm chủ và tự quyết định vận mệnh của mình. Đinh Bộ Lĩnh: Là người có công lớn trong việc dẹp “Loạn 12 sứ quân”. Vì trước nguy cơ ngoại xâm mới (mưu đồ xâm lược nước ta của nhà Tống) đòi hỏi phải nhanh chóng thống nhất lực lượng để đối phó. Đó cũng là nguyện vọng của nhân dân ta thời bấy giờ. Đinh Bộ Lĩnh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó. Việc Đặt tên nước (là Đại Cồ Việt), chọn kinh đô và không dùng niên hiệu của hoàng đế Trung Quốc đã khẳng định đất nước ta là “nước Việt lớn”, nhà Đinh có ý thức xây dựng nền độc lập, tự chủ. Lê Hoàn: Là người tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất năm 981 giành thắng lợi, có ý nghĩa to lớn. Thắng lợi ấy đã biểu thị ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của quân dân ta; chứng tỏ bước phát triển mới của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt. Trong giai đoạn lịch sử củng cố bảo vệ nền độc lập và buổi đầu xây dựng đất nước, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn là những vị anh hùng dân tộc, được nhân ta kính trọng, biết ơn, nhiều nơi lập đền thờ. Chủ đề 4. NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ (thế kỉ XI - đầu thế kỉ XIII) I. Nhà Lý đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước như thế nào? 1. Trình bày sơ lược bối cảnh ra đời của nhà Lý, việc dời đô ra Thăng Long và tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý? Bối cảnh ra đời nhà Lý: Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Hà Bắc) không có cha, mẹ họ Phạm. Thời niên thiếu của Lý Công Uẩn trải qua trong môi trường Phật giáo. Năm lên ba, Lý Công Uẩn làm con nuôi cho nhà sư Lý Khánh Vân (vì thế ông mang họ Lý). Sau đó ông lại là đệ tử của Sư Vạn Hạnh và ở hẳn trong chùa Lục Tổ (còn gọi là chùa Cổ Pháp). Lớn lên, Lý Công Uẩn được giữ một chức nhỏ trong đội cấm quân của vua Lê Đại Hành. Ông nổi tiếng là người liêm khiết và được giới Phật giáo ủng hộ. Năm 1005, sau khi Lê Đại Hành mất, các hoàng tử tranh ngôi, Thái tử Long Việt lên ngôi chỉ mới ba ngày thì bị Lê Long Đĩnh giết. Lý Công Uẩn không ngại ngần, ôm xác người vua mới mà khóc. Lê Long Đĩnh lên ngôi, phong Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, thống lĩnh toàn thể quân túc vệ. Lê Long Đĩnh chết vào năm 1009 sau một thời gian trị vì tàn bạo. Lúc bấy giờ giới Phật giáo với các vị cao tăng danh tiếng như sư Vạn Hạnh đang có uy tín trong xã hội và trong triều đình đang chán ghét nhà Lê, họ cùng quan đại thần là Đào Cam Mộc đưa Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn lên ngôi, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, lập nên nhà Lý. Nhà Lý truyền được tám đời nên sử sách thường gọi là Lý Bát Đế (không kể đời Lý Chiêu Hoàng). Lý Thái Tổ với việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La (đổi tên là thành Thăng Long): 16
  17. Sau khi lên làm vua, Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp nên cho dời đô về Đại La (1010) và đổi tên Đại La thành Thăng Long (Hà Nội). Thăng Long bấy giờ nằm vào vị trí trung tâm của đất nước, là nơi hội tụ của đường bộ, đường sông. Theo quan niệm của người xưa, Thăng Long có "được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương Đông Tây Nam Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước Xem khắp nước Việt ta chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời" (Chiếu dời đô). Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý: Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt và tiến hành xây dựng chính quyền quân chủ bằng cách tổ chức bộ máy nhà nước gồm : Chính quyền TW: đứng đầu là vua, dưới có quan đại thần và các quan ở hai ban văn, võ. Chính quyền địa phương: cả nước được chia thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, dưới phủ là huyện, dưới huyện là hương, xã. Đó là chính quyền quân chủ, nhưng khoảng cách giữa chính quyền với nhân dân, giữa vua với dân chưa phải là đã xa lắm. Nhà Lý luôn coi dân là gốc rễ sâu bền. 2. Trình bày những nét chính về luật pháp, quân đội và chính sách đối nội, đối ngoại thời Lý: Luật pháp: Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta có tên là bộ Luật Hình thư. Bao gồm những quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân; nghiêm cấm việc giết mổ trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Người phạm tội bị xử phạt nghiêm khắc. Quân đội: Quân đội thời Lý bao gồm có quân bộ và quân thủy. Vũ khí có giáo mác, dao, kiếm, cung, nỏ, máy bắn đá. Trong quân còn chia làm hai loại: cấm quân và quân địa phương. Quân đội nhà Lý được tổ chức có quy mô. Dưới đời Lý Thánh Tông, tổ chức quân đội được chia làm bốn lộ là tả, hữu, tiền, hậu. Tất cả gồm có 100 đội, mỗi đội có lính kị và lính bắn đá. Binh pháp nhà Lý rất nổi tiếng, nhà Tống bên Trung Hoa đã từng bắt chước, áp dụng binh pháp này cho quân đội của mình. Đến thời Lý Thần Tông có một ít thay đổi trong cơ chế quân đội. Quân lính được sáu tháng một lần đổi phiên nhau về làm ruộng. Nhờ thế, nhân lực cho nền nông nghiệp vẫn được bảo đảm. Chính sách đối nội, đối ngoại: Về đối nội, nhà Lý coi trọng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Về đối ngoại, đặt quan hệ ngoại giao bình thường với nhà Tống và Cham-pa. Kiên quyết bảo toàn chủ quyền, lãnh thổ. 3. Trình bày những chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hóa thời Lý: Về kinh tế: Do đất nước đã độc lập, hòa bình và ý thức dân tộc cùng những chính sách quản lí, điều hành phù hợp của nhà Lý nên kinh tế đã có bước phát triển. Nông nghiệp: Nhà nước có nhiều biện pháp quan tâm sản xuất nông nghiệp (lễ cày tịch điền, khuyến khích khai hoang, đào kênh mương, đắp đê phòng lụt, cấm giết hại trâu bò ), nhiều năm mùa màng bội thu. Thủ công nghiệp và xây dựng: nghề dệt, làm đồ gốm, xây dựng chùa chiền, cung điện, nhà cửa rất phát triển. Các nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc; làm giấy, đúc đồng, rèn sắt đều được mở rộng. Nhiều công trình nổi tiếng đã được các thợ thủ công dựng nên như chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định). Thương nghiệp: việc mua bán trong nước và với nước ngoài được mở mang hơn trước. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) là nơi giao thương buôn bán với nước ngoài rất sầm uất. Về xã hội: Vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị, một số quan lại, một số ít dân thường có nhiều ruộng cũng trở thành địa chủ. Thành phần chủ yếu trong xã hội là nông dân gắn bó với làng, xã; họ phải làm các nghĩa vụ với nhà nước và nộp tô cho địa chủ; một số đi khai hoang lập nghiệp ở nơi khác. Những người làm nghề thủ công sống rải rác ở các làng, xã phải nộp thuế và làm nghĩa vụ đối với nhà vua. Nô tì phục vụ trong cung điện, các nhà quan. Về văn hóa, giáo dục: 17
  18. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long, năm 1076, mở Quốc tử giám. Nhà nước rất quan tâm giáo dục, khoa cử. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tô tượng, đúc chuông Ca hát, nhảy múa, trò chơi dân gian; kiến trúc, điêu khắc đều phát triển với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt; tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý, Việc xây dựng Văn Miếu, Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt. Những thành tựu về văn hóa - nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hóa riêng của dân tộc - văn hóa Thăng Long. II. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077) dưới thời Lý đã diễn ra như thế nào? 1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống được thể hiện như thế nào? Từ giữa thế kỉ XI, tình hình nhà Tống gặp phải những khó khăn: nội bộ mâu thuẫn, nông dân nổi lên khởi nghĩa, vùng biên ải phía Bắc Tống bị hai nước Liêu - Hạ quấy nhiễu Đối với Đại Việt, nhà Tống quyết định dùng chiến tranh để giải quyết tình trạng khủng hoảng trong nước và đưa nước ta trở lại chế độ đô hộ như trước. Nhà Tống xúi giục Cham-pa đánh lên từ phía Nam, còn ở biên giới phía Bắc của Đại Việt chúng ngăn cản việc buôn bán, dụ dỗ, mua chuộc các tù trưởng dân tộc làm phản. 2. Trước âm mưu xâm lược của nhà Tống, nhà Lý đã chủ động chuẩn bị kháng chiến ra sao? Nhà Lý đã cử Lý Thường Kiệt làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến. Quân đội được mộ thêm người và tăng cường canh phòng, luyện tập, làm thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống. Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Cham-pa. Thực hiện chủ trương “tiến công trước để tự vệ”, tháng 10 - 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân bất ngờ tấn công vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông), sau khi tiêu diệt các căn cứ, kho tàng của giặc, quân ta tiếp tục tấn công châu Ung (Quảng tây). Sau 42 ngày chiến đấu, quân ta hạ thành Ung Châu và nhanh chóng rút về nước. Đây là một chủ trương hết sức độc đáo, táo bạo và sáng tạo, trong binh pháp gọi là “tiên phát chế nhân” (đánh trước để khống chế kẻ thù). Tiến công để tự vệ chứ không phải là xâm lược. Cuộc tiến công diễn ra rất nhanh chỉ nhằm vào các căn cứ quân sự, kho tàng, quân lương mà quân Tống chuẩn bị để tiến hành cuộc xâm lược. Sau khi thực hiện mục đích của mình, quân ta nhanh chóng rút về nước. 3. Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống ở giai đoạn 2 (1076 - 1077) của quân dân Đại Việt? Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt cho xây dựng các tuyến phòng thủ ở các vị trí hiểm yếu, chiến lược gần biên giới phía Bắc (nơi ta dự đoán quân giặc nhất định sẽ phải đi qua). Đặc biệt là tuyến phòng thủ chủ yếu trên bờ Nam sông Như Nguyệt. Sông Như Nguyệt là đoạn sông Cầu chảy qua huyện Yên Phong (bờ Bắc là Bắc Giang, bờ Nam là Bắc Ninh ngày nay). Đây là đoạn sông có vị trí rất quan trọng, vì nó án ngữ mọi con đường từ phía Bắc chạy về Thăng Long. Phòng tuyến dài gần 100 km, được đắp bằng đất, cao, vững chắc; bên ngoài còn có mấy lớp giậu tre dày đặc. Quân chủ lực của ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy trực tiếp đóng giữ phòng tuyến quan trọng này. Cuối năm 1076, nhà Tống cử một đạo quân lớn theo hai đường thủy, bộ tiến hành xâm lược Đại Việt. Tháng 1 - 1077, 10 vạn quân bộ do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy vượt biên giới qua Lạng Sơn tiến xuống. Quân ta chặn đánh, đến trước bờ Bắc sông Như Nguyệt quân Tống bị quân ta chặn lại. Quân thủy của chúng cũng bị chặn đánh ở vùng ven biển nên không thể tiến sâu vào để hỗ trợ cho cánh quân bộ. Quân Tống nhiều lần tấn công vào phòng tuyến sông Như Nguyệt để tiến xuống phía Nam, nhưng bị quân ta đẩy lùi. Quân Tống chán nản, tuyệt vọng, chết dần chết mòn. Cuối năm 1077, quân ta phản công, quân Tống thua to. Quân ta chủ động kết thúc chiến tranh bằng đề nghị “giảng hòa”, quân Tống chấp nhận ngay và rút về nước. Cách kết thúc cuộc kháng chiến của Lý Thường Kiệt rất độc đáo: để đảm bảo mối quan hệ bang giao hòa hiếu giữa hai nước sau chiến tranh, không làm tổn thương danh dự của nước lớn, bảo đảm hòa bình lâu dài. Đó là truyền thống nhân đạo của dân tộc ta. III. Nhân vật tiêu biểu Ngoài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh đặc biệt có Lý Thường Kiệt, một nhà quân sự tài ba và Ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đã phát huy được khả năng trong việc cai trị đất nước. 18
  19. Ỷ Lan nguyên phi Ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà không có con nên thường đi các nơi để cầu tự. Một hôm vua qua làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra đường xem xa giá thì bà đang hái dâu, chỉ đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến để hỏi. Thấy bà xinh đẹp, đối đáp dịu dàng lại thông minh sắc sảo, vua đưa về cung và phong làm Ỷ Lan phu nhân. Năm 1066 bà sinh Thái tử Càn Đức và được phong là Nguyên phi. Lúc bấy giờ giữa Đại Việt và Cham-pa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý Thánh Tông phải thân chinh đi đánh (1069). Vua giao cho bà quyền giám quốc. Sau nhiều trận không thành công, Lý Thánh Tông rút quân về nước. Trên đường về kinh đô, nghe báo là bà Ỷ Lan thay vua trị nước được yên vui, Thánh Tông nghĩ: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, ta đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!” Vua đem quân trở lại và lần này chiến thắng. Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi. Bà được phong làm Thái phi. Có tài liệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ Dương buông rèm lo việc triều chính. Ỷ Lan lên làm Hoàng Thái Hậu (tức Linh Nhân Thái Hậu) giúp vua trị nước. Trước họa nhà Tống lăm le xâm lăng Đại Việt, bà đã nghe theo lời Lý Thường Kiệt cho gọi Lý Đạo Thành trở lại giữ chức Thái phó Bình Chương quân quốc trọng sự để lo việc triều chính. Đây là lúc triều đình nhà Lý tổ chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh sang tận Ung Châu, Liêm Châu, năm sau chặn đứng quân xâm lăng ở sông Như Nguyệt buộc chúng phải rút về nước. Trong việc trị nước, Thái hậu coi trọng việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu bò dùng làm sức kéo. Thương những phụ nữ nghèo khổ phải đem thân thế nợ, không thể lập gia đình, bà cho xuất tiền chuộc họ và tìm người gả chồng cho. Thái hậu cũng chú ý mở mang đạo Phật. Tương truyền bà đã cho xây dựng đến 100 ngôi chùa để mong chuộc lại lỗi đã bức tử Dương Thái Hậu cùng các cung nữ trước kia. Lý Thường Kiệt Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Từ nhỏ ông đã ham chuộng cả văn lẫn võ, thích đọc sách và tập luyện võ nghệ. Năm 20 tuổi, ông được bổ làm một chức quan nhỏ trong đội kị binh. Sau theo lời khuyên của vua Lý Thái Tông, ông tự hoạn để vào làm quan trong cung. Ông được thăng dần lên đến chức Đô tri nội thị sảnh, trông coi mọi việc trong cung vua. Đến năm 1069, ông được cử làm Đại tướng theo vua Lý Thánh Tông tiến công Cham-pa. Lý Thường Kiệt bắt được Chế Củ trong dịp này khi tiến quân đến tận biên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay). Chiến thắng trở về, ông được phong làm Phụ quốc Thái phó, tước Khai quốc công và được vua Lý nhận làm con nuôi, vì thế ông đổi sang họ Lý và có tên là Lý Thường Kiệt. Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức (7 tuổi, con của Ỷ Lan Nguyên phi) lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thượng Dương cùng Thái sư Lý Đạo Thành là phụ chính nhưng Lý Thường Kiệt giúp Ỷ Lan (đã trở thành Linh Nhân Thái hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu Thượng Dương, giáng Lý Đạo Thành xuống làm Tả gián nghị Đại phu và đổi đi trấn nhậm ở Nghệ An. Ỷ Lan lên làm Phụ chính còn Lý Thường Kiệt làm Tể tướng. Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể tướng của nhà Tống là Vương An Thạch đưa ra Tân pháp để giải quyết những bế tắc của Trung Quốc. Một trong những biện pháp của Tân pháp Vương An Thạch là phải tạo nên uy danh cho nhà Tống bằng cách bành trướng xuống phía Nam, xâm lăng Đại Việt. Do vậy nhà Tống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung Châu (Quảng Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Trước tình thế đó Lý Thường Kiệt chủ trương như sau: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc". Trước hết để củng cố nội bộ, ông đề nghị cùng Ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về lại triều đình giữ chức Thái phó trông coi việc triều chính. Trước họa nước, Lý Đạo Thành hợp lực cùng Lý Thường Kiệt tích cực chuẩn bị việc đối phó. Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đánh vào Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm, quân Việt chiếm được thành Ung Châu. Sau khi phá hủy phần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống, tháng 4.1076, Lý Thường Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấy, nhà Tống cử tướng Quách Quỳ đem 30 vạn quân theo hai đường thủy bộ sang xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt cho lập phòng tuyến kiên cố dọc theo sông Như Nguyệt để chặn địch. Đồng thời ông cũng cho quân đón đánh thủy binh địch và đã ngăn được hai cánh quân thủy bộ của địch phối hợp với nhau. Trên phòng tuyến 19
  20. Như Nguyệt, chiến trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ quân sĩ, ông làm nên bài thơ và cho người đêm khuya vào đền thờ Trương Hát ở bờ Nam sông Như Nguyệt giả thần nhân đọc vang lên: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. (Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời) Nhờ thế tinh thần quân sĩ thêm hăng hái. Sau hơn ba tháng đánh không thắng, lực lượng bộ binh không thể sang sông vì thiếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị chết mất quá nửa lại thêm bệnh tật đe dọa, Quách Quỳ lâm vào thế quẫn bách. Lý Thường Kiệt chủ động đề nghị hòa để mở lối thoát cho quân địch nhằm sớm chấm dứt chiến tranh. Đến tháng ba năm 1077 Quách Quỳ rút quân về nước. Từ đấy quân Tống từ bỏ ý định xâm lược Đại Việt. Chủ đề 5 NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN (THẾ KỈ XIII - XV) VÀ NHÀ HỒ (ĐẦU THẾ KỈ XV) I. Nước Đại Việt dưới thời Trần: 1. Trình bày những nguyên nhân làm cho nhà Lý sụp đổ và nhà Trần được thành lập? Từ cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIII, nhà Lý suy yếu: vua quan ăn chơi xa hoa, bất lực, không chăm lo đến đời sống nhân dân; kinh tế khủng hoảng, mất mùa làm nhân dân li tán, đói khổ, bất mãn và nổi dậy khởi nghĩa. Các thế lực phong kiến ở các địa phương đánh giết lẫn nhau càng làm cho nhà Lý thêm suy yếu. Lý Huệ Tông không có con trai, chỉ có hai người con gái. Công chúa cả Thuận Thiên, gả cho Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh, rất được Lý Huệ Tông yêu mến và lập làm Thái tử. Năm 1224, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh và vào ở trong chùa Chân Giáo. Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh làm chồng và sau đó nhường ngôi cho Trần Cảnh, triều Lý chấm dứt, triều Trần thay thế. Một cuộc đảo chính không đổ máu đã thành công. Trong hoàn cảnh đó, nhà Trần thành lập, thay nhà Lý quản lí đất nước là việc làm cần thiết để ổn định tình hình chính trị, xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân, xây dựng và bảo vệ đất nước. 2. Nêu và nhận xét về những điểm mới và khác trong việc xây dựng bộ máy chính quyền, quản lí, điều hành đất nước thời Trần so với thời Lý? Nhà Trần xây dựng chính quyền mới dựa theo cơ cấu bộ máy nhà nước thời Lý, được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, gồm 3 cấp: triều đình, các đơn vị hành chính trung gian từ lộ, phủ, huyện, châu và cấp hành chính cơ sở là xã. Tuy nhiên, nhà nước quân chủ trung ương tập quyền được tổ chức hoàn chính và chặt chẽ hơn thời Lý. Đó là: - Ở triều đình có thêm chức danh Thái thượng hoàng (vua cha) cùng với con cai quản đất nước (trong thời gian đầu khi con mới lên ngôi). - Bộ máy hành chính ở triều đình và các địa phương được tổ chức quy củ và đầy đủ hơn như: có thêm nhiều cơ quan quản lí nhà nước về các mặt như: Quốc sử viện, Thái y viện, Hà sứ, Khuyến nông sứ, Đồn điền sứ ; cả nước được chia lại thành 12 lộ; các quý tộc họ Trần được phong vương hầu và ban thái ấp. Điều đó chứng tỏ nhà Trần đã quan tâm hơn đến nhiều mặt hoạt động của đất nước và năng lực quản lí được nâng cao. Bên cạnh đó là việc nhà Trần rất quan tâm đến pháp luật như ban hành bộ luật mới mang tên “Quốc triều hình luật” (nội dung giống như bộ luật Hình thư thời Lý nhưng được bổ sung thêm). Luật xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản. Đồng thời có những biện pháp để tăng cường và hoàn thiện cơ quan pháp luật như thành lập Thẩm hình viện, là cơ quan chuyên việc xét xử kiện cáo. Những việc làm trên đã làm cho pháp luật nhà nước được thực hiện nghiêm minh; góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc củng cố vương triều nhà Trần, ổn định xã hội và phát triển kinh tế. 20
  21. 3. Nêu những chủ trương và biện pháp tích cực, tiến bộ của nhà Trần trong việc xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng? Nhà Trần đã có những chủ trương và biện pháp tích cực, tiến bộ trong việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng: Quân đội thời Trần, gồm có cấm quân (đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình và nhà vua) và quân ở các lộ; ở làng xã có hương binh; ngoài ra còn có quân của các vương hầu. Bố trí tướng giỏi, quân đông ở những vùng hiểm yếu, nhất là biên giới phía Bắc. Đó là cách tổ chức rất chặt chẽ và chuyên nghiệp với tinh thần chủ động và cảnh giác cao, tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa quân chủ lực và quân địa phương trong luyện tập và phòng thủ. Quân đội được tuyển và huấn luyện theo chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh trong dân), “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông); coi trọng học tập binh pháp và huấn luyện võ nghệ. Việc binh lính luân phiên tại ngũ và về làm ruộng, vừa bảo đảm việc huấn luyện đội quân thường trực lại vừa bảo đảm phát triển kinh tế. Với chủ trương: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ngắn đánh dài, xây dựng tình đoàn kết “tướng sỹ một lòng phụ tử”, đoàn kết quân dân, khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc cùng cách tổ chức, huấn luyện nói trên, nhà Trần đã xây dựng được một đội quân tinh nhuệ, củng cố vững chắc sức mạnh quốc phòng, phát huy được sức mạnh tổng hợp trong phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. 4. Trình bày những nét chính sự phát triển kinh tế, văn hóa thời Trần? Kinh tế: + Nông nghiệp: công cuộc khai khẩn đất hoang, thành lập làng xã được mở rộng, đê điều được củng cố. Các vương hầu, quý tộc chiêu tập dân nghèo đi khai hoang lập điền trang. Nhà Trần ban thái ấp cho quý tộc, đặt chức Hà đê sứ để trông coi việc đắp đê. Nhờ vậy nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển. + Thủ công nghiệp: do nhà nước trực tiếp quản lí, rất phát triển và mở rộng nhiều ngành nghề: làm đồ gốm, dệt vải, đúc đồng, rèn sắt, chế tạo vũ khí, đóng thuyền đi biển + Thương nghiệp: chợ mọc lên ngày càng nhiều ở các làng xã. Ở kinh thành Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, đã có 61 phường. Buôn bán với nước ngoài cũng phát triển, nhất là ở cảng Vân Đồn (Quảng Ninh). Văn hóa: + Tín ngưỡng cổ truyền được duy trì và có phần phát triển hơn như tục thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc + Đạo Phật tuy vẫn phát triển nhưng không bằng thời Lý. Nho giáo ngày càng phát triển, có địa vị cao và được trọng dụng. + Các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian: ca hát, nhảy múa, hát chèo, các trò chơi vẫn được duy trì, phát triển. + Nền văn học (bao gồm cả chữ Hán, chữ Nôm) phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, chứa đựng sâu sắc lòng yêu nước, tự hào dân tộc phát triển rất mạnh ở thời Trần, làm rạng rỡ cho nền văn hóa Đại Việt như: Hịch tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn, Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu Giáo dục và khoa học - kĩ thuật: + Quốc tử giám được mở rộng, các lộ, phủ đều có trường học, các kì thi được tổ chức ngày càng nhiều. + Năm 1272, tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ra đời. Y học có Tuệ Tĩnh là thầy thuốc nổi tiếng. + Về khoa học, Hồ Nguyên Trừng và các thợ thủ công chế tạo được súng thần công và đóng các loại thuyền lớn. Nghệ thuật: + Kiến trúc điêu khắc thời Trần không huy hoàng như thời Lý nhưng cũng có những công trình quan trọng như tháp mộ của vua Trần Nhân Tông trước chùa Phổ Minh ở Tức Mặc (Nam Định) xây năm 1310, thành Tây Đô ở Thanh Hóa (1397). + Âm nhạc thời Trần có chịu ảnh hưởng của Cham-pa. Chiếc trống cơm rất thịnh hành thời ấy nguyên là nhạc khí của Cham-pa. Đó là loại da dán hai đầu bằng cơm nghiền, được dùng để hòa cùng với dàn nhạc trong các dịp lễ Tết. + Hát chèo đã manh nha từ thời này và tiếp tục phát triển. II. Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (thế kỉ XIII). 21
  22. 1. Em biết gì về sức mạnh của quân Mông - Nguyên và âm mưu, quyết tâm xâm lược Đại Việt của chúng? Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ được thành lập. Với một lực lượng quân sự hùng mạnh và hiếu chiến, quân Mông Cổ đã liên tiếp xâm lược và thống trị nhiều nước, gieo rắc nỗi kinh hoàng, sợ hãi khắp châu Á, châu Âu. Năm 1257, Mông Cổ tiến đánh Nam Tống nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để đạt được mục đích, chúng quyết định xâm lược Đại Việt rồi đánh thẳng lên phía Nam Trung Quốc. Năm 1279, Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ thống trị (năm 1271, Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên). Năm 1283, nhà Nguyên cử Toa Đô chỉ huy 10 vạn quân tiến đánh Cham-pa. Sau khi chiếm được Cham-pa, quân Nguyên cố thủ ở phía Bắc, chờ phối hợp đánh Đại Việt. Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, vua Nguyên ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công Nhật Bản, tập trung mọi lực lượng kể cả ý đồ đánh lâu dài, tấn công Đại Việt lần thứ ba để trả thù. Cuối tháng 12 năm 1287, 30 vạn quân thủy, bộ tiến đánh Đại Việt. 2. Trước âm mưu và hành động của giặc Mông - Nguyên, nhà Trần đã chuẩn bị kháng chiến như thế nào? Cuối năm 1257, khi được tin quân Mông Cổ chuẩn bị xâm lược, nhà Trần đã ban lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, các đội dân binh được thành lập, ngày đêm luyện tập. Hốt Tất Liệt cho sứ sang bảo vua Trần phải thần phục. Vua Trần Thái Tông cho giam đoàn sứ giả lại rồi sai Trần Hưng Đạo đem quân lên giữ phía Bắc. Nhà Trần đã có chủ trương và đường lối chuẩn bị kháng chiến toàn dân hết sức đúng đắn, cương quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. 3. Trình bày nét chính diễn biến ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên? a. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ (1258). Không thấy đoàn sứ giả trở về, tháng 1 năm 1258, 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm lược Đại Việt. Quân giặc theo đường sông Thao tiến xuống Bạch Hạc (Phú Thọ) rồi tiến đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông chỉ huy. Để bảo toàn lực lượng, nhà Trần chủ trương cho quân rút khỏi kinh thành Thăng Long, thực hiện “vườn không nhà trống”. Giặc vào kinh thành không một bóng người và lương thực. Chúng đã điên cuồng tàn phá kinh thành. Thiếu lương thực, lại bị quân ta chống trả, chưa đầy một tháng, lực lượng chúng bị tiêu hao dần. Nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, ở phố Hàng Than - Hà Nội ngày nay). Ngày 29 - 01 - 1258, quân Mông Cổ thua trận phải rút chạy về nước. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ kết thúc thắng lợi. b. Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên (1285). Sau khi biết tin quân Nguyên đánh Cham-pa, vua Trần triệu tập các vương hầu, quan lại họp ở Bình Than (Chí Linh - Hải Dương) để bàn kế đánh giặc. Trần Quốc Tuấn được vua giao cho chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sỹ để động viên tinh thần chiến đấu. Đầu năm 1285, vua Trần mời các vị bô lão họp Hội nghị Diên Hồng ở Thăng Long để bàn kế đánh giặc. Cả nước được lệnh sẵn sàng, quân đội tập trận lớn ở Đông Bộ Đầu.Tướng sĩ được khích lệ, ai nấy một lòng diệt giặc. Họ lấy mực xăm lên tay hai chữ "sát Thát" để tỏ lòng quyết tâm của mình. Cuối tháng 1 - 1285, Thoát Hoan chỉ huy 50 vạn quân tiến công Đại Việt. Quân ta do Trần Hưng Đạo chỉ huy, sau một số trận chiến đấu ở biên giới đã chủ động rút về Vạn Kiếp (Chí Linh - Hải Dương). Giặc đến, ta rút về Thăng Long thực hiện “vườn không nhà trống”, rồi rút về Thiên Trường (Nam Định). Quân Nguyên tuy chiếm được Thăng Long, nhưng chỉ dám đóng quân ở phía Bắc sông Nhị (sông Hồng). Toa Đô từ Cham-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa. Thoát Hoan mở cuộc tiến công xuống phía Nam tạo thế “gọng kìm” hi vọng tiêu diệt chủ lực ta và bắt sống vua Trần. Quân ta chiến đấu dũng cảm, Thoát Hoan phải rút quân về Thăng Long. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị động, thiếu lương thực trầm trọng. Từ tháng 5 - 1285, quân ta bắt đầu phản công, nhiều trận đánh lớn như: Tây Kết, Hàm Tử (Khoái Châu - Hưng Yên), Chương Dương (Thường Tín - Hà Tây). Quân ta tiến vào Thăng long, quân Nguyên tháo chạy. Sau hơn 2 tháng phản công, quân ta đã đánh tan hơn 50 vạn quân Nguyên, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân Nguyên. c. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287 - 1288). 22
  23. Đứng trước nguy cơ bị xâm lược, nhà Trần khẩn trương chuẩn bị, tăng cường quân ở những nơi hiểm yếu, nhất là vùng biên giới và vùng biển. Cuối tháng 12 - 1287, quân Nguyên tiến vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang rồi kéo về Vạn Kiếp. Cánh quân thủy do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào sông Bạch Đằng rồi về Vạn Kiếp. Tại Vân Đồn, Trần Khánh dư chỉ huy quân mai phục, khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đến, quân ta đánh dữ dội. Phần lớn thuyền lương của giặc bị đắm, số còn lại bị ta chiếm. Cuối tháng 1 - 1288, Thoát Hoan vào thành Thăng Long trống vắng. Sau trận Vân Đồn, tình thế quân Nguyên ngày càng khó khăn, nhiều nơi xung yếu bị quân ta tấn công chiếm lại, lương thực ngày càng cạn kiệt, Thăng Long có nguy cơ bị cô lập. Thoát Hoan quyết định rút quân về Vạn Kiếp và từ đây rút về nước theo hai đường thủy, bộ. Nhà Trần mở cuộc phản công ở cả hai mặt trận thủy, bộ. Tháng 4 - 1288, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi đã lọt vào trận địa bãi cọc trên sông Bạch Đằng do ta bố trí từ trước, cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Trên bộ, Thoát Hoan dẫn quân từ Vạn Kiếp theo hướng Lạng Sơn rút về Trung Quốc, bị quân ta liên tục chặn đánh, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng thoát thân. Tuy thắng trận, nhưng trước sức mạnh của quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông cho người sang xin giảng hòa. Vua Nguyên cũng đành bằng lòng. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên đã kết thúc thắng lợi vẻ vang. 4. Trình bày nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên dưới thời Trần? Nguyên nhân thắng lợi: Tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vệ quê hương đất nước tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc, vương hầu nhà Trần là hạt nhân lãnh đạo. Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt, nhà Trần rất quan tâm chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân. Tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân mà nòng cốt là quân đội. Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của vương triều Trần, đặc biệt là của vua Trần Nhân Tông, các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi. Ý nghĩa lịch sử: Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Mông - Nguyên, bảo vệ được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Thể hiện sức mạnh của dân tộc, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược (góp phần nâng cao lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho nhân dân ). Góp phần xây dựng truyền thống dân tộc, xây dựng học thuyết quân sự, để lại nhiều bài học cho đời sau trong cuộc đấu tranh chống xâm lược. III. Nhân vật, di tích tiêu biểu thời Trần: (tham khảo) Nhà Trần đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam với sự nở rộ đáng kể về số lượng danh nhân. Ta có thể phân biệt các danh nhân dưới triều Trần ra làm hai: Danh nhân thuộc họ Trần và danh nhân ngoài dòng họ Trần. Trong họ Trần, đó là Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1218-1277), Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1240-1290), Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1258-1308), Trần Hưng Đạo (12??- 1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Khánh Dư (?-1285), Trần Thủ Độ (1194-1264), Trần Huyền Trân, Trần Khát Chân (?-1399), Trần Quốc Toản Những danh nhân ngoài dòng họ Trần có thể kể như sau: Lê Văn Hưu (1230-1322), Nguyễn Thuyên, Chu Văn An (1292-1370), Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), Phạm Ngũ Lão (1255-1320), Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Hiền, Trương Hán Siêu (?- 1354), Phạm Sư Mạnh, Hồ Tông Thốc Trong số các danh nhân ấy, xin giới thiệu một người trong dòng họ Trần là thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản và một nhân vật ngoài dòng họ Trần là Lê Văn Hưu, sử gia đầu tiên của đất nước. Trần Quốc Toản (1266-?) Hội nghị Bình Than là một hội nghị giữa nhà vua cùng các vương hầu, quan lại, tướng soái cao cấp của nhà Trần để bàn sách lược chống lại sự xâm lăng của Nguyên Mông. Trong không khí bừng bừng ấy, một thiếu niên tôn thất nhà Trần là Trần Quốc Toản có theo đến nhưng vì còn nhỏ (16 tuổi) nên không 23
  24. được dự bàn. Quốc Toản uất ức, tay đương cầm quả cam bóp nát ra lúc nào không biết. Khi tan hội, các vương hầu ai nấy ra về, lo việc sắm sửa binh thuyền để cự địch. Trần Quốc Toản cũng thế, về nhà cho may một lá cờ to với sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Ông tụ họp được hơn nghìn người thân thuộc, cùng nhau chuẩn bị vũ khí để chống giặc. Đến khi xuất trận, Quốc Toản luôn đi trước, khí thế dũng mãnh, đánh chỗ nào quân địch cũng phải lùi. Trong hai cuộc chiến thắng chống quân Nguyên (1284 - 1288), Trần Quốc Toản đều lập được công lớn. Trong trận Hàm Tử (1284), Quốc Toản được cử làm phó tướng cho Trần Nhật Duật, thắng trận, Quốc Toản được hân hạnh là người đưa tin về cho Trần Hưng Đạo. Đến trận Chương Dương, Quốc Toản đã cùng Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão đốc quân từ Thanh Hóa đi vòng đường bể đến tấn công bất ngờ vào quân Nguyên ở Chương Dương. Trong trận đuổi quân Thoát Hoan ra khỏi thành Thăng Long, Quốc Toản cũng góp phần đáng kể. Không rõ vị dũng tướng thiếu niên này hy sinh trong trận nào và vào năm nào. Chỉ biết một chi tiết là khi Quốc Toản chết trận, vua Trần Nhân Tông thương khóc làm bài văn tế có nội dung như sau: Cờ đề sáu chữ giải hờn này Lăn lóc muôn quân vẫn đánh say Công thắng quân Nguyên đà chắc trước, Từ khi cam nát ở trong tay (bản dịch) Lê Văn Hưu (1230-1322) Lê Văn Hưu là một học giả xuất sắc của đời Trần, và được hậu thế xem là sử gia đầu tiên của Việt Nam. Ông quê làng Phủ Lý (thôn Phủ Lý Nam, xã Thiệu Trung), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng là người thông minh và học giỏi từ nhỏ. Năm 1247 nhà Trần mở khoa thi đầu tiên lấy tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), Lê Văn Hưu đậu Bảng nhãn, lúc đó ông mới 17 tuổi, Ông được bổ làm Kiểm pháp quan (một chức quan về hình luật), sau lại được sung chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện Tu giám. Thời gian này Lê Văn Hưu được vua Trần Thái Tông sai soạn bộ "Đại Việt sử ký" viết về lịch sử Việt Nam từ đời Triệu Đà (207 trước Công nguyên) đến đời Lý Chiêu Hoàng. Không rõ Lê Văn Hưu soạn bộ này từ lúc nào, chỉ biết đến năm 1272 thì hoàn tất. Bộ sử gồm tất cả ba mươi quyển, được đưa lên cho vua Trần Thánh Tông xem và được nhà vua khen ngợi. Lê Văn Hưu có thời gian làm đến Thượng Thư bộ binh và là phó của Thượng tướng Trần Quang Khải, được phong tước Nhân Uyên hầu. Ông mất ngày 23.3 năm Nhâm Tuất (1332) thọ 92 tuổi, an táng tại xứ Mả Giòm, nay thuộc thôn Phủ Lý Nam, xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tác phẩm của Lê Văn Hưu được biết duy nhất chỉ có bộ "Đại Việt sử ký" nhưng nay đã thất truyền. Tuy thế, chính từ cơ sở chủ yếu của bộ sử này mà Ngô Sĩ Liên, một sử gia đời Lê đã soạn được bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" có giá trị để người đời sau hiểu về cội nguồn của dân tộc. IV. Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV và những cải cách của Hồ Quý Ly. 1. Sự suy yếu của nhà Trần cuối thế kỉ XIV được biểu hiện như thế nào? Tình hình kinh tế: Từ nửa sau thế kỉ XIV, nhà nước không còn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, đê điều, các công trình thủy lợi không được chăm lo, tu sửa, nhiều năm xảy ra mất mùa. Nông dân phải bán ruộng, thậm chí cả vợ con cho quý tộc và địa chủ. Quý tộc, địa chủ ra sức cướp đoạt ruộng đất công của làng xã. Triều đình bắt dân nghèo mỗi năm phải nộp ba quan tiền thuế đinh. Tình hình xã hội: Vua, quan, quý tộc, địa chủ thả sức ăn chơi xa hoa, xây dựng nhiều dinh thự, chùa chiền tốn kém tiền của. Trong triều nhiều kẻ gian tham, nịnh thần làm rối loạn kỉ cương, phép nước Chu Văn An đã dâng sớ đòi chém 7 tên nịnh thần nhưng nhà vua không nghe. Khi vua Trần Dụ Tông mất (1369), Dương Nhật Lễ lên thay, tình hình càng trở nên rối loạn, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Đầu năm 1334, Ngô Bệ hô hào nông dân ở Yên Phụ (Hải Dương) đứng lên khởi nghĩa, bị triều đình đàn áp nên thất bại. Đầu năm 1344, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân ở Quốc Oai (Sơn Tây) nổi dậy. Nghĩa quân đã chiếm thành Thăng Long trong ba ngày. Cuộc khởi nghĩa thất bại vì bị triều đình tập trung lực lượng đàn áp. Như vậy, đến cuối thế kỉ XIII, triều Trần đã bộc lộ sự suy sụp, yếu kém trong quản lí, điều hành đất nước. 2. Trình bày sự thành lập nhà Hồ và những cải cách của Hồ Quý Ly? 24
  25. Nhà Hồ được thành lập: Những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã làm cho nhà Trần không còn giữ được vai trò của mình. Lê Quý Ly vốn có tổ tiên họ Hồ, người Chiết Giang (Trung Quốc) sang sinh sống ở Quỳnh Lưu. Đến ông tổ bốn đời của Quý Ly lại dời ra Thanh Hóa làm con nuôi cho một gia đình họ Lê nên đổi ra họ Lê. Quý Ly có hai người cô đều lấy vua Trần Minh Tông, một người là mẹ của vua Trần Nghệ Tông, người kia là mẹ của Trần Duệ Tông. Dưới triều vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), Lê Quý Ly làm đến chức Khu Mật đại sứ và rất được Nghệ Tông tin dùng. Vào đời Trần Duệ Tông (1372-1377), ngoài việc bản thân vua là con người cô của Quý Ly, thì hoàng hậu cũng là em họ của Quý Ly. Uy quyền của Quý Ly vì thế nghiêng trời lệch đất. Năm 1400, Quý Ly phế truất vua Trần và lên làm vua, lấy lại họ Hồ của Tổ tiên, lập ra nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu (vì họ Hồ vốn dòng dõi nhà Ngu bên Trung Hoa). Những cải cách của Hồ Quý Ly: Về chính trị: Thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc, tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần thân cận với mình. Đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp. Các quan ở triều đình phải về các lộ để nắm tình hình. Về kinh tế, tài chính, xã hội: Phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng; ban hành chính sách “hạn điền”, quy định số ruộng đất mà các vương hầu, quan lại cùng địa chủ được phép có. Không ai có quyền sở hữu trên 10 mẫu ruộng. Nếu quá con số ấy thì biến thành tài sản của nhà nước. Chế độ “hạn nô” cũng được ban hành, quy định mỗi hạng người chỉ có được một số nô tỳ nhất định; quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng; năm đói kém bắt nhà giàu phải bán lương thực cho dân Về văn hóa, giáo dục: Bắt nhà sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục; cho dịch chữ Hán ra chữ Nôm, yêu cầu mọi người phải học. Ngay sau khi lên ngôi được 5 tháng, Hồ Quý Ly đã cho tổ chức kỳ thi Thái học sinh, chọn được 20 người đỗ, trong đó có Nguyễn Trãi. Ba năm sau, nhà Hồ ấn định cách thức thi cử và có những chính sách quan tâm đến việc học hành, thi cử. Chính sách khuyến học của nhà Hồ đã đưa đến kết quả đáng kể. Năm 1405, có đến 170 người thi đỗ và được bổ dụng vào bộ máy quan chức của nhà Hồ. Về quân sự: Thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng như chế tạo súng thần công, đóng chiến thuyền, bắt tất cả mọi người từ hai tuổi trở lên đều phải ghi vào sổ hộ tịch. Nhờ thế quân số và sức mạnh quốc phòng được tăng thêm. Những cải cách của Hồ Quý Ly đụng chạm đến hầu hết các giai tầng xã hội, nhất là tầng lớp quý tộc với các phép “hạn điền”, “hạn nô”. Vì thế phản ứng của tầng lớp này rất quyết liệt. Những biện pháp kinh tế của Hồ Quý Ly lại chưa có thời gian để trở thành hiện thực nên chưa lôi kéo được quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, việc cướp ngôi nhà Trần đã làm bất bình giới nho sĩ từng thấm nhuần tư tưởng trung quân ái quốc. Do đó nhà Hồ đã không động viên được sự đoàn kết toàn dân, cuộc chiến chống Minh vì thế thất bại. Chủ đề 6. NƯỚC ĐẠI VIỆT ĐẦU THẾ KỈ XV, THỜI LÊ SƠ I. Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược đầu thế kỉ XV. 1. Trình bày cuộc xâm lược của nhà Minh và sự thất bại của nhà Hồ? Tháng 11 - 1946, nhà Minh huy động 20 vạn quân cùng hàng chục vạn dân phu, do tướng Trương Phụ cầm đầu, chia làm hai cánh tràn vào biên giới nước ta ở Lạng Sơn, nhà Hồ chống cự không được phải lui về bờ Nam sông Nhị (sông Hồng), cố thủ ở thành Đa Bang (Ba Vì, nay thuộc Hà Nội). Cuối tháng 1 - 1407, quân Minh đánh chiếm Đa Bang rồi tràn xuống chiếm Đông Đô (Thăng Long), nhà Hồ lui về Tây Đô (Thanh Hóa). Tháng 4 - 1407, quân Minh đánh chiếm Tây Đô, nhà Hồ chạy về Hà Tĩnh, Hồ Quý Ly bị bắt vào tháng 6 - 1407. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại. Nhà Hồ bị thất bại nhanh chóng là do đường lối đánh giặc sai lầm và do không đoàn kết được toàn dân kháng chiến 2. Đường lối của nhà Trần trong kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên và của nhà Hồ trong kháng chiến chống quân Minh có gì khác nhau? Hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhà Trần và nhà Hồ có sự khác nhau căn bản, đó là: 25