Bài giảng Ngữ Văn Lớp 9 - Tiết 23: Truyện Kiều và nghệ thuật miêu tả trong văn bản tự sự

pptx 52 trang Chiến Đoàn 09/01/2025 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ Văn Lớp 9 - Tiết 23: Truyện Kiều và nghệ thuật miêu tả trong văn bản tự sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_ngu_van_lop_9_tiet_23_truyen_kieu_va_nghe_thuat_mi.pptx

Nội dung text: Bài giảng Ngữ Văn Lớp 9 - Tiết 23: Truyện Kiều và nghệ thuật miêu tả trong văn bản tự sự

  1. A. KHÁI QUÁT CHỦ ĐỀ 1. Các đơn vị kiến thức trong chủ đề 1. Truyện Kiều của Nguyễn Du 2. Đ/trích Chị em Thúy Kiều 3. Đ/trích Kiều ở lầu Ngưng Bích 4. Miêu tả trong văn bản tự sự 5. Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự
  2. I. TÁ C GIẢ NGUYỄN DU(1765-1820) 1. Gia thế 2. Thờ i đaị 3. Cuôc̣ đờ i 4. Sư ̣ nghiêp̣ sáng tác
  3. II TTAÁ́ CC GGIIAẢ̉ NNGGUUYYÊỄ̃NN DDUU((11776655 11882200)) - Nguyêñ Du tên chữ là Tố Như - hiêụ Thanh Hiên - quê ở làng Tiên Điền, huyêṇ Nghi Xuân, tin̉ h Hà Tiñ h
  4. I/ TÁC GIẢ NGUYỄN DU: 1. Thời đại - Đầy biến động dữ dội: giang sơn mấy lần đổi chủ: + Triều đại Lê - Trịnh sụp đổ Tây sơn lên thay + Tây Sơn suy vong - Nguyễn Gia Long lên thay. - Chế độ phong kiến suy tàn , khởi nghĩa nông dân nổ ra liên miên. Thời đại ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con người của Nguyễn Du.
  5. 2. Gia thế - Cha là Nguyễn Nghiễm, từ ng đỗ Tiến sĩ và giữ chức tể tướng, vốn là người giỏi văn chương. - Mẹ là Trần Thị Tần, một người đẹp nổi tiếng ở đấ t Kinh Bắc. - Ông có nhiều anh em cùng cha khá c me,̣ trong đó có Nguyêñ Khản từ ng làm quan to. - Nguyêñ Du xuấ t thân trong môṭ gia điǹ h đại quí tộc, có nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương.
  6. 3. Cuôc̣ đời - Lúc nhỏ 9 tuổi mất cha, 12 tuổi mất mẹ, ông ở với anh trai Nguyễn Khản. - Khi trưởng thành, thời thế biến loa ̣nên phải lưu lạc ở đất Bắc 10 năm (1786-1796); ông về ở ẩn tại quê nhà (1796- 1802). - Làm quan bất đắc dĩ cho nhà Nguyễn (1802-1820).
  7. Long thành cầm giả ca là một trong những bộ phim nhựa được xây dựng nhân sự kiện kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Bộ phim dựa theo ý tưởng của bài thơ Long thành cầm giả ca của thi hào Nguyễn Du. Kịch bản phim của Văn Lê được trao giải nhất trong cuộc thi viết về một nghìn năm Thăng Long. Đạo diễn là Đào Bá Sơn. Các diễn viên chính là Quách Ngọc Ngoan (vai Tố Như - Nguyễn Du) và Nhật Kim Anh (vai Cầm).[1] Ngoài ra còn có các diễn viên nổi tiếng khác tham gia như Trần Lực, Bùi Bài Bình.[2
  8. Phim mở đầu với cảnh một cô bé tên Gái soi bóng dưới cái giếng làng. Cô bé sinh ra tại một vùng quê yên bình, có người mẹ từng là ca kỹ nên cô bé phải nối nghiệp mẹ mình. Sau này Gái được một người quen đưa lên kinh thành Thăng Long để học đàn, cô bé trở thành học trò của thầy Nguyễn và được đổi tên Cầm. Ngay lần đầu gặp Cầm, thầy Nguyễn đã thấy ở cô có tài năng đặc biệt, tiếng đàn của cô mang nhiều cảm xúc hơn những người ca kỹ khác. Cầm lớn lên với sắc đẹp chim sa cá lặn làm say đắm lòng người cũng như khả năng đàn điêu luyện. Một hôm binh lính trong kinh thành nổi loạn, chúng tàn phá giết chóc khắp nơi, buộc người dân phải bỏ chạy khỏi kinh thành. Trong thời gian đi lánh nạn, Tố Như và Cầm gặp nhau, từ đó họ đem lòng yêu nhau. Tố Như yêu Cầm dù đã có vợ hiền ở quê nhà. Cầm về quê sống với dì, Tố Như đi phiêu bạt suốt nhiều năm rồi cũng về quê. Chiến tranh diễn ra, nhà Thanh kéo quân sang xâm lược Đại Việt. Một tên quan nhà Thanh bắt giữ Cầm để ép buộc cô về phủ riêng đàn cho hắn nghe, đúng lúc đó quân Tây Sơn tấn công vào, nhờ vậy mà Cầm thoát nạn. Trong thời gian này Tố Như bắt đầu làm thơ, còn Cầm trở thành ca kỹ nổi tiếng trong vùng. Hai người gặp lại nhau tại nhà một người phú hộ trong làng. Cầm muốn trao thân xác trong trắng của mình cho Tố Như, nhưng anh từ chối và bỏ đi xa. Nhiều năm sau, Tố Như trở thành quan chánh sứ được vua cử đi sứ sang Trung Hoa. Ông gặp lại Cầm tại thành Thăng Long, hai người giờ đây đều đã già nua. Thấy nhan sắc của người phụ nữ mình yêu bị tàn phai theo thời gian, Tố Như đã ngẫu hứng làm bài thơ Long thành cầm giả ca ngay trong đêm đó. Đây cũng là lần cuối cùng hai người ở bên nhau. Cầm đi lang thang đến khi về lại cái giếng làng ngày xưa, có lẽ bà đã nhảy xuống giếng tự tử. Từ đó vào những đêm trăng sáng, người ta nghe được tiếng đàn bí ẩn vang từ dưới giếng lên.
  9. 44 SSưư ̣̣nngghhiiêêpp̣̣ ssaá́nngg ttaá́cc - Tác phẩm chữ Hán: 243 bài thơ in trong 3 tập v“Thanh hiên thi tập”, v“Nam trung tạp ngâm”, v“Bắc hành tạp lục” - Tác phẩm chữ Nôm: “Truyện Kiều”, “ Văn chiêu hồn” Truyện Kiều với 3254 câu lục bát, cụ Nguyễn Du đưa thơ ca dân tộc lên đỉnh cao của thi ca nghệ thuật. Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Năm 1965 cụ được vinh danh làdanh nhân văn hoá thế giới, thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
  10. KKhhuu llưưuu nniiêêmṃ̣ NNgguuyyêêññ DDuu,, NNgghhii XXuuâânn,, HHaà̀ TTiinñ̃ hh
  11. Traile Long Thành cầm giả ca
  12. TiÕng th¬ ai ®éng ®Êt trêi Nghe như­ non nư­íc väng lêi ngµn thu. Nghìn năm sau nhí NguyÔn Du TiÕng thư­¬ng như­ tiÕng mÑ ru những ngµy.
  13. IIII TTAÁ́ CC PPHHÂẨ̉ MM TTRRUUYYÊÊNṆ̣ KKIIÊỀ̀UU 1. Nguồn gốc, Hoàn cảnh sá ng tá c 2. Bố cục và Tó m tắ t
  14. v Truyện Kiều – tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm theo thể lục bátcủa Nguyễn Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). v Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm ra đời khoảng đầu thế kỉ 19, v Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức. v Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều-nhân vật chính trong truyện, một cô gái “sắc nước hương trời” và có tài “ cầm ký thi họa” nhưng cuộc đời lại gặp lắm truân chuyên.
  15. Mối quan hệ giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện Như chúng ta đã biết Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn toàn khác nhau. Nếu nhưTruyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người ưa chuộng và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau(khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài. Ngoài ra đã có những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của một số nền văn học dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc, ). Thì Kim Vân Kiều truyện lại phải chịu một số phận bất hạnh. Cuốn sách của Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ trong văn học sử Trung Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch sử văn học Trung Quốc.
  16. 2. Bố cục: 2. Bố cục: Theo kết cấu truyện NômTheo kết cấu truyện Nôm Gặp gỡ- Chia li- Đoàn tụGặp gỡ- Chia li- Đoàn tụ Truyện thơ Nôm hay Truyện Nôm thể thơ tiếng Việt viết bằng chữ Nôm (thường là thơ lục bát) để kể chuyện (trần thuật). Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh về hiện thực của xã hội và con người với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Nội dung của truyện thơ Nôm thường phản ánh đời sống xã hội cũng như thể hiện quan niệm, lí tưởng nhân sinh của tác giả thông qua việc miêu tả và thường là miêu tả chi tiết, tường thuật lại một cách tương đối trọn vẹn cuộc đời, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với chuỗi các biến cố, sự kiện nổi bật. Truyện thơ Nôm tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt dùng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm.
  17. 2. Bố cục: 2. Bố cục: Theo kết cấu truyện NômTheo kết cấu truyện Nôm Gặp gỡ- Chia li- Đoàn tụGặp gỡ- Chia li- Đoàn tụ Phần một: Gặp gỡ và đính ước - Gia thế và tài sắc chị em Thúy Kiều - Gặp gỡ Kim Trọng - Đính ước thề nguyền
  18. PPhhâầ̀nn hhaaii:: GGiiaa bbiiêế́nn vvaà̀ llưưuu llaacc̣̣ - Thúy Kiều bán mình cứu cha - Thúy Kiều rơi vào tay họ Mã - Thúy Kiều mắc mưu Sở Khanh, vào lầu xanh lần 1 - Thúy Kiều gặp gỡ làm vợ Thúc Sinh bị Hoạn Thư đầy đoạ. - Thúy Kiều vào lầu xanh lần 2, gặp gỡ Từ Hải. - Thúy Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến. - Thúy Kiều nương nhờ cửa phật.
  19. Phần ba: Đoàn tu ̣
  20. TÓM TẮT Thúy Kiều, nhân vật chính trong Truyện Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn, có tâm hồn cao thượng. Nhận dịp du xuân, nàng gặp Kim Trọng, một thanh niên hào hoa phong nhã. Hai người yêu nhau và cùng nhau thề nguyền thủy chung. Nhưng tai họa bất ngờ ập đến với Kiều. Gia đình bị nạn. Kiều tự nguyện bán mình chuộc cha. Bị bọn Mã Giám Sinh và Tú Bà đưa vào lầu xanh. Kiều định tự tử để thoát khỏi cảnh ô nhục nhưng không được. Sau lần mắc mưu Sở Khanh đi trốn bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn, nàng đành chịu tiếp khách. Ít lâu sau, Kiều được Thúc Sinh – một kẻ giàu có say mê nàng, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng chưa được một năm Kiều lại bị Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh, bày mưu bắt về hành hạ. Nàng bị bắt làm con ở hầu rượu gãy đàn mua vui cho vợ chồng ả. Khổ nhục quá, Kiều bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư nhưng lại lọt vào một lầu xanh khác.
  21. Ở đây, nàng gặp Từ Hải và trở thành vợ người anh hùng này. Phất cờ khởi nghĩa, hùng cứ một phương, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Nhưng cũng chẳng bao lâu, Kiều bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến, nàng khuyên Từ Hải ra hàng phục triều đình, Từ Hải bị phản bội và chết đứng. Kiều bị làm nhục và bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, nàng đã tự tử ở sông Tiền Đường nhưng lại được sư Giác Duyên cứu sống. Kim Trọng và gia đình Thúy Kiều đi tìm. Sau mười lăm năm trời lưu lạc, Kiều trở lại sum họp với gia đình. Nàng từ chối không chắp nối mối duyên xưa cùng Kim Trọng mà họ trở thành bạn bè để giữ tình cảm cho được trong sáng và đẹp đẽ.
  22. Truyện Kiều là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của thiên tài văn học Nguyễn Du. Là viên ngọc sáng của nền thi ca Trung đại 1. Từ một tiểu thuyết chương hồi ít tiếng tăm, Nguyễn Du đã sang tạo lại bằng thể truyện thơ chữ nôm với thể thơ lục bát dân tộc kêt hợ hài hoà giữa yếu tố tự sự với trữ tình từ đó tạo ra một kiệt tác thi ca nổi tiếng giàu tính nghệ thuật 2. Cái nhìn của Nguyễn Du với tác phẩm có sự sáng tạo lớn. Tất cả các nhân vật được bao bọc bởi cái nhìn nhân đạo của ông nên có sự thay đổi về tính cách, số phận, cách đánh giá các giá trị của nguời đời đối với nhân vật 3. Từ một câu chuyện “tình cổ” xoay quanh ba nhân vật Kim- Vân- Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh với nhân vật trung tâm lý tưởng là nàng Kiều. Đồng thời Tố Như thể hiện quan niệm nhân sinh đối với những điều trông thấy: “Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
  23. Cuộc xử oán trong Kim Vân Kiều Truyện: Bấy giờ trong dinh bắt đầu nổi lên một tiếng trống hiệu, bọn lính tay cầm cờ mầu lam hô to lên rằng: Đem bọn phạm nhân lớp một vào hầu. Hạ Báo (một viên tướng của Từ Hải - ghi chú của Ngày Nay) liền dẫn Hoạn thị, Kế thị (tức mẹ của Hoạn Thư), Bạc Bà, Bạc Hãnh vào quỳ dưới sân. Phu nhân bắt đầu tuyên bố tội trạng: Mụ Bạc Bà kia đẩy người vào trong cạm bẫy, còn tên Bạc Hãnh, bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Vậy theo đúng lời thề trước của mi, lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn. Còn mụ Bạc thì đem chặt đầu bêu lên ngọn cây phía trước. Bọn đao phủ được lệnh dạ lên một tiếng, tức thì lôi mụ Bạc Bà đem ra chặt đầu. Còn Bạc Hãnh thì dùng chiếu bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người giữ, một người cầm cưa, cắt từ dưới chân lên đầu thành hơn 100 đoạn. Ghê thay một cái thân hình như vậy mà trong giây phút thịt nát như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn.
  24. Kế đó, gọi đến phạm nhân họ Hoạn. Họan Thư chẳng còn hồn vía, kêu xin phu nhân tha thứ tính mạng kẻ hèn này. Vương phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà ngươi có nhiều mưu chước hay và cũng có gan nhẫn nại đó. Nhưng mà bất cứ việc gì cũng nên để lại chút tình, thì sau gặp gỡ khỏi ngượng. Vậy nay ngươi gặp lại ta, nhất định không thể sống được. Hoạn Thư khấu đầu lia lịa thưa rằng: Tội của tiện thiếp thực đáng muôn chết, nhưng xin phu nhân nhớ lại trước kia phu nhân viết tờ cung trạng, làm thiếp tôi động mối tình thương, nên đã để phu nhân viết kinh trên Quan Âm Các. Rồi khi phu nhân bước ra khỏi cửa, thiếp chẳng hề đuổi theo. Cái đó đủ biết lòng riêng riêng vẫn kính yêu, chỉ vì thế bất lưỡng cập (tình thế không cho phép đứng đôi), nghĩa là không thể cắt sợi tơ tình chia lòng sủng ái, mà nó xui nên tội lỗi oan gia, dám xin phu nhân xét lại. Vương phu nhân tỏ vẻ nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp: Ta đây chỉ muốn ăn thịt và lột da ngươi, để tiêu mối hận ngày trước. Nhưng giờ đây, sở dĩ ngươi được thoát chết là lúc ta đi ngươi chẳng đuổi theo, tỏ ý hé mở cửa lồng cho chim bay bổng. Nhưng còn tội sống thì ngươi không thể chối cãi được đâu. Vậy ta hỏi: Bọn sang Lâm Truy bắt ta là những tên nào? Cứ việc khai đúng sự thực, để chúng gánh bớt một phần tội lỗi cho ngươi.
  25. Hoạn Thư cúi đầu thưa rằng: Những kẻ thi hành mưu kế dẫu là Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng, nhưng người bầy ra mưu đó chính là tiện thiếp. Bọn chúng chẳng qua chỉ biết theo lệnh mà thôi. Nếu đem chúng ra gánh tội thay thì thiếp không nỡ. Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là phụ nữ dám nhận cả phần oan cừu vào mình đó chăng? Rồi nàng gọi quân đao phủ đem bọn Ưng Khuyển ra chém đầu để cảnh cáo những kẻ hào nô (nô bộc của phú hào) khác. Đao phủ dạ ran, lôi tuột hai tên ra chém đầu. Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính đương sắp ra tay thì Hoạn Thư ôm chầm lấy mẹ xin chịu đòn thay, và mụ quản gia (quản gia nhà mẹ Hoạn Thư, đã giúp đỡ Kiều khi nàng bị bắt về Vô Tích, và được Kiều tặng 100 lạng vàng, 2000 lạng bạc trong buổi báo ân xử oán - ghi chú của Ngày Nay) cũng vội quỳ xuống thưa rằng: Tội trạng của bà chủ tôi quả thực không thể tha thứ, vậy kẻ tớ già này xin tình nguyện thay chết cho chủ mẫu. Phu nhân rằng: Thôi thì ta cũng nể lời mụ quản gia tha chết cho thị để mụ nhận lãnh đem đi.
  26. Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài dinh trại. Nhưng Kế thị năm ấy tuổi ngoài sáu mươi, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, chưa từng gặp cảnh khổ nhục bao giờ mà nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến, khổ sở biết bao, lại thấy ba quân giết người như rạ, trong khi tuổi nhiều sức yếu, mụ đã khiếp đảm chết ngay tức thì. Mụ quản gia đành ngồi một bên để trông nom thi thể. Vương phu nhân thấy mụ quản gia đem Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh 100 trượng. Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để chừa một cái khố, tóc bị buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, hai tên khác thì cầm vọt ngựa đứng trước và sau, một tên đánh từ trên đánh xuống, một tên đánh từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ 100 roi, phu nhân truyền lệnh lôi ra cho Thúc Sinh nhận lãnh. Cung nữ vâng lệnh, cởi tóc đem Hoạn Thư xuống, lôi ra phía ngoài gọi Thúc Sinh vào nhận. Thúc Sinh tạ ơn xong nhìn đến Hoạn Thư, thấy nàng chỉ còn thoi thóp thì chàng than rằng: Em ơi, chỉ vì cái khiếu thông minh của em đó mà phải rước lấy tai vạ, cầm dao cắt thịt của mình. Rồi một mặt thu nhận thi thể Kế thị, một mặt đỡ Hoạn Thư về chạy chữa đến nửa năm trời mới khỏi.
  27. Xử Tú Bà, Mã giám sinh và Sở Khanh Quân sĩ dạ ran, túm tóc mụ kéo lật về phía sau. Bấy giờ mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn miệng kêu rằng: Tội của kẻ hèn mọn này thật đáng muôn lần bị chết chém. Chỉ xin phu nhân thương cho phần nào. Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn mơ tưởng đến sự sống sao? Lời thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan thế nào được hử? Quân sĩ đâu, lôi con Tú Bà này ra, lấy dầu vông đun sôi để tẩm vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn trời để làm tròn lời thề ngày trước. Mau lên! Còn tên Mã Bất Tiến (tên thật của Mã Giám Sinh) thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho căng thẳng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để ứng lời thề của nó. Ngoài ra, lại nấu một nồi dầu thông trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và lấy thùng nước lã lớn để bên, rồi đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc dầu thông đun sôi rưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo. Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài. Tú Bà thì cuốn thành một cây sáp lớn. Phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Giám Sinh thì bị căng xác. Sở Khanh bị quấn thành một thỏi sắt nguội. Đoạn rồi phu nhân hô to: “Đốt sáp”, quân sĩ bèn châm lửa vào chân Tú Bà. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng hủy hoại da thịt người khác? Tú Bà chết ngất, không trả lời được nữa.
  28. Kế đến Mã Giám Sinh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh một cái. Giám Sinh lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm cho thi thể Giám Sinh rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng ra ngoài bể cho cá nóc ăn để báo lại tội bạc tình. Còn Sở Khanh bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy đến bóc lột miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì ngoài da đã bị dầu thông ăn loẽn, chẳng cần dùng sức, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái mụn như là bọt nước. Rồi sau ít phút trở thành mủ, rã thịt lòi xương mà chết thê thảm
  29. Cuộc xử oán trong Đoạn Trường Tân Thanh: Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều Truyện được cụ Nguyễn Du tóm tắt qua 42 câu thơ: Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội hoàn toàn cho Hoạn Thư. Trong Kim Vân Kiều Truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách dã man. - Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện. - Cụ Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hãnh, Bạc Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết và tàn nhẫn như trong Kim Vân Kiều Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng tình với Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi nàng trả thù những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải chau mày và có ý niệm chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân tính nàng áp dụng đối với kẻ thù.
  30. NHỮNG CÂU THƠ HAY MIÊU TẢ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU Thúy Kiều: Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
  31. Kim Trọng: Dùng dằng nửa ở nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. Trông chừng thấy một văn nhân Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
  32. Thúc Sinh Khách du bỗng có một người Kì Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương. Vốn người huyện Tích, châu Thường Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Từ Hải “Đội trời đạp đất ở đời Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông Giang hồ quen thói vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.” Râu hùm, hàm én, mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”
  33. NHÂN VẬT PHẢN DIỆN Mã Giám Sinh: Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Trước thầy sau tớ lao xao Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
  34. Tú Bà: Xe châu dừng bánh cửa ngoài, Rèm trong đã thấy một người bước ra. Thoắt trông lờn lợt mầu da, Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao? Sở Khanh: Một chàng vừa trạc thanh xuân Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng; Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
  35. 33 GGiiaá́ ttrrii nṇ̣ ôôiị̣ dduunngg vvaà̀ nngghhêê ̣ṭthhuuââtṭ̣ Giá trị nội dung vGiá trị hiện thực: Là bức tranh về một xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, là tiếng nói lên án những thế lực phong kiến xấu xa đặc biệt là tố cáo xã hội đồng tiền.
  36. Vai trò bá chủ của đồng tiền trong sinh hoạt xã hội của thời đại Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hạ, chẳng qua vì tiền! Cò kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá, vâng ngoài bốn trăm Trong tay sẵn có đồng tiền Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì! Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong! Có ba mươi lạng trao tay Không dưng chi có truyện này trò kia!
  37. 33 GGiiaá́ ttrrii nṇ̣ ôôiị̣ dduunngg vvaà̀ nngghhêê ̣ṭthhuuââtṭ̣ Giá trị nội dung vGiá trị nhân đạo: Truyện Kiều là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người, là tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người: Quyền sống, tự do, công lí, tình yêu, hạnh phúc.
  38. v Phát hiện, trân trọng, ngợi ca những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người thông qua hình tượng nhân vật Kiều. Kiều là hiện thân của tài năng, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Kiều đẹp cả về nhan sắc và tài năng. Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
  39. v Cảm thương, xót xa cho số phận đau thương của con người. Khi xây dựng nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã lấy đúng hình tượng của những người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” thời phong kiến. Kiều là người con hiếu thảo, cha bị tù tội do gia đình gặp biến cố, bọn tham quan hãm hại “sạch sành vét cho đầy túi tham”. Vì cứu cha và gia đình, Kiều đã quyết định hi sinh đi hạnh phúc riêng của bản thân mình. Kiều bán mình chuộc cha. Hành động của Kiều chứa đựng tinh thần nhân đạo, sự hiếu thảo, hiếu nghĩa khiến người đọc không khỏi xúc động xót xa. Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân” hay: “Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”
  40. v Lên án, tố cáo những thế lực bạo tàn chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người v Sự thấu hiểu ước mơ, khát vọng tự do của con người. Quyền tự do yêu đương vượt qua lễ giáo phong kiến Dưới cầu nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Người đâu gặp gỡ làm chi Trăm năm biết có duyên gì hay không? Quyền tự do vượt khỏi tư tưởng trung quân ái quốc Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Rằng: Từ là đấng anh hùng. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi”.
  41. Giá trị tư tưởng trong Truyện Kiều Thuyết tài mệnh triết lí nhân sinh “Tài mệnh tương đố ( Khắc)”: “Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen Cảo thơm lần giở trước đèn Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”
  42. Triết lí nhân sinh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều Mỗi người sinh ra đều có một thân phận. Muôn sự đều do trời. Trời ở đây là trời trong Nho giáo. Thiên mệnh do giai cấp thống trị chi phối (con trời) thay trời trị dân. Trời trong Phật giáo là cái số mình như vậy. Trời của Lão giáo là tự do phiêu lãng nơi mây bay hạc lánh, cuối cùng trời là giáo lý, đạo lý của xã hội Việt Nam - nơi mình đang sống, là thiên thời, địa lợi, nhân hòa mình có được.
  43. Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.
  44. 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật - Giá trị nghê ̣thuâṭ + Ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đạt đến đỉnh cao rực rỡ. + Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc : Dẫn chuyện, miêu tả thiên nhiên, khắc hoạ tính cách, và miêu tả tâm lí con người.
  45. Câu hỏi: Em hãy nêu những nguyên nhân tạo nên thiên tài văn học Nguyễn Du? Đáp án: Nguyễn Du là một thiên tài văn học. Cuộc đời và sự nghịêp của ông sống mãi cùng thời gian. Những nguyên nhân tạo nên thiên tài ấy là xã hội, gia đình và chính bản thân Nguyễn Du. Nhà thơ sống trong một thời kỡ xã hội phong kiến suy tàn. Ông được sinh ra trong một gia đỡnh quý tộc có truyền thống văn học. Bản thân Nguyễn Du có sẵn năng khiếu, thông minh, phải lưu lạc nhiều năm, có điều kiện tiếp xúc với nhân dân, cho nên ông thấu hiểu nỗi khổ của con người. Tất cả những điều kiện ấy tạo nên một thiên tài cho dân tộc. Chúng ta luôn tự hào về Nguyễn Du, về tác phẩm Truyện Kiều – một tài sản lớn của đất nước.
  46. Xuất thân gia Biến đình quý tộc động dữ dội Cuộc Thời đời C ó nhiều thăng đại trầm Chế độ phong kiến suy tàn Vốn tri thức Thơ chữ Hán sâu rộng Vốn sống Sự phong phú Con người nghiệp sáng tác Thơ chữ Nôm Đồng cảm sâu sắc với con người
  47. Tên gọi mà nhân dân tôn xưng Nguyễn Du? 5. Nguyễn Du vay mượn cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” 7. Năm4. Từ ngữ nào nói lên vốn tri thức của Nguyễn Du?4. Từ ngữ nào nói lên vốn tri thức của Nguyễn Du?6.Từ ngữ nào nói lên cuộc đời6.Từ ngữ nào nói lên cuộc đời 1965 Nguyễn Du được UNNESCO công nhận danh hiệu này? của Nguyễn Du? của Nguyễn Du? 3. Thời đại2. Quê hương1. Tên hiệu của Nguyễn Du là gì? của Nguyễn Du sống của n của Nguyễn Du ở tỉnh nào? ước nào ? đầy 1 t h a n h h i Ê n 10612345789 9 2 H ￿ T Ỉ n H 6 3 B I Ế n Đ Ộ N G 8 4 S ￿ U R Ộ N G 7 5 T R U N G Q U Ố C 9 6 T H Ă N G T R Ầ M 9 7 d A N H N H ￿ N V Ă N H Ó A 14 XÕp l¹i Đ Ạ i T h I H ￿ O D ￿ N T Ộ C 15 ¤ Đ Ạ i T h I H ￿ O D ￿ N n