Sáng kiến kinh nghiệm Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_quan_ly_hoat_dong_giao_duc_van_hoa_ung.pdf
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Môi trường giáo dục là nơi đào tạo những lớp người có tri thức để phục vụ xã hội. Thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là giường cột của nước nhà. Môi trường giáo dục lành mạnh là điều kiện tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có tài năng, đạo đức. Trường học là nơi rèn đức, luyện tài, trang bị kiến thức cho học sinh. Trong môi trường này, học sinh phải biết về trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác. Vậy thực trạng văn hoá học đường ngày nay như thế nào? Phần lớn thế hệ trẻ trong nhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin có sức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng dụng những kiến thức học vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống có kỷ cương, không ngừng phấn đấu vươn nên trong học tập và trong cuộc sống. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ đang ứng xử một cách vô văn hoá. Nhà tư vấn tâm lý Phạm Thị Thuý cho rằng: Văn hoá ứng xử học đường Việt Nam đã ở vào cấp độ báo động đỏ. Quá nhiều hành vi thiếu văn hoá của cả học sinh và giáo viên. Văn hoá học đường đang xuống cấp nghiêm trọng, là sự xuống cấp đáng sợ nhất của một nền giáo dục. Hiện có rất nhiều người đồng tình với ý kiến này khi cho rằng văn hoá ứng xử học đường đang bị xem nhẹ. Nhà trường chỉ tập trung vào việc dạy kiến thức tự nhiên xã hội mà quên đi giáo dục nhân cách sống cho học sinh. Thực tế cho thấy trong môi trường học đường, nơi văn hoá được coi trọng, được xây dựng và phát huy lại đang diễn ra những điều thiếu văn hoá. Trong môi trường giáo dục hai mối quan hệ chính là quan hệ giữa thầy và trò và quan hệ giữa các trò với nhau. Trong đó mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ cốt lõi nhất để xây dựng môi trường giáo dục. Theo thống kê của Bộ giáo dục đào tạo, từ đầu năm học 2009-2010 đến nay cả nước đã xảy ra hơn 1600 vụ học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường học, trong đó có các vụ án hình sự ngày càng gia tăng. Học sinh đánh nhau không chỉ dùng chân tay hay cặp sách nữa mà là những hình ảnh các học em sinh mặc đồng phục tuổi từ 10 đến 18 cầm dao, phớ, kiếm và cả súng tự chế hay súng mua chui trên thị trường để “xử nhau” chỉ vì những lí do rất trẻ con như “nhìn đểu”, không cho chép bài, nói xấu, ghen tuông hoặc chỉ đơn giản là đánh cho bõ ghét. Không dừng lại ở việc đánh lộn lẫn nhau học trò hiện nay yêu quá sớm, yêu nhiều và quan niệm yêu gắn liền với tình dục đã để lại những hậu quả 1
- khó lường. Có những bạn trẻ đứng trước nguy cơ vô sinh hoặc đã bị vô sinh do nạo hút thai ở tuổi dậy thì, sức khoẻ giảm sút, tâm lý tổn thương .Đã có rất nhiều bậc phụ huynh khi đưa con gái vào bệnh viện vì con đau bụng dữ dội mới tá hoả khi nhận được tin dữ con gái họ đã mang thai. Không ít những cô cậu đã phải làm cha, làm mẹ ở độ tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” do quan niệm quá thoáng về tình yêu. Văn hoá ứng xử giữa học trò với nhau ngày nay mang nhiều màu sắc biến tướng. Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng, hội cũng là vấn đề nhức nhối nó không những làm ảnh hưởng đến môi trường giáo dục mà còn làm cho xã hội quan tâm lo lắng. Hiện tượng lập băng nhóm rồi đi cướp, trấn lột, dằn mặt lẫn nhau, thanh toán ân oán cá nhân của học trò làm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà làm công tác giáo dục và quản lí giáo dục. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn nghe nhiều về đạo thầy - trò (Đạo làm thầy và đạo làm trò). Quan hệ thầy trò xưa kia là mối quan hệ đáng kính và đáng chân trọng. Người xưa có câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là dạy một chữ cũng là thầy mình mà dạy nửa chữ cũng là thầy và lấy ông thầy làm trung tâm, học trò nhất nhất phải nghe theo, coi thầy là tấm gương để học theo. Cách đây hơn hai nghìn năm Khổng Tử bàn đến mối quan hệ Quân - Sư - Phụ (Vua - thầy - cha)tức là học trò kính thầy như kính vua, kính cha. Những quan niệm coi thầy là cha còn ăn sâu tới nỗi khi thầy chết học trò để tang như để tang cha mẹ. Mỗi khi muốn hỏi thầy hoặc trao đổi vấn đề gì phải thưa gửi lễ phép đàng hoàng. Đứng trước mặt thầy phải chỉnh tề, nhã nhặn, gặp thầy phải cúi chào từ xa, khoanh hai tay trước ngực khi nào thầy trả lời mới được ngửng lên. Nhưng ngày nay học trò của chúng ta đã không thể làm đủ lễ nghi với thầy cô họ lại còn xuyên tạc, làm biến tướng các nghi lễ, thiếu sự tôn trọng với thầy cô, coi thường việc học. Ví dụ như: Cách chào của học trò khi gặp thầy cô, họ vừa đi thậm chí là chạy ù ù qua thầy cô vừa chào “cô ạ”, “thầy ạ” để tiết kiệm từ và nói cho nhanh hơn nữa học trò chào thầy cô (nếu là cô giáo) “Quạ! Quạ!”, (nếu là thầy) “Thạ! Thạ!” rồi cười hô hố rất phản cảm làm cho giáo viên chẳng thể hiểu học trò chào mình hay chào cái gì. Sau lưng học trò gọi thầy cô mình là ông nọ, bà kia tệ hại hơn là gọi bằng đại từ nhân xưng “nó”. Khi làm bài kiểm tra không tốt bị thầy cho điểm kém không vừa ý mình học trò sẵn sàng lôi bài kiểm tra ra xé trước mặt thầy cô để tỏ thái độ. Có trường hợp trò vì mâu thuẫn nhỏ, xung đột ý kiến hoặc bị giáo viên phạt mà quay ra thù thầy cô, tạt a-xít vào thầy cô, cả kể việc thuê người giết chết thầy cô mình. Nhìn lại xem đây là lối ứng xử gì? Những năm gần đây hiện tượng tiêu cực trong giáo dục không phải là ít. Ở đâu đó chúng ta còn thấy những thầy giáo không đủ tư cách làm tấm 2
- gương, những cô giáo thiếu tinh thần trách nhiệm, những học trò bàng quan với việc học với tương lai, cuộc đời, chúng ta có thể thấy rằng việc giáo dục giới trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết được cả xã hội quan tâm. Việc xây dựng được môi trường giáo dục mà ở đó thầy đúng nghĩa là thầy, trò đúng nghĩa là trò, trong môi trường giáo dục đó chỉ có tình yêu thương, sự kính trọng, bao dung biết ơn và hoà hiếu đó là mơ ước của tất cả mọi người. Nhưng đáng buồn thay thực trạng văn hoá ứng xử của thế hệ trẻ trong nhà trường đang xuống cấp một cách nghiêm trọng cả về đạo đức lối sống và ý thức sống. Đã đến lúc chúng ta phải thấy được sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng đạo đức và lối ứng xử có văn hoá cho thế hệ trẻ. Xây dựng một thế hệ trẻ có sức khoẻ, có trí lực, lòng nhiệt huyết, luôn trau dồi về lý tưởng và đạo đức cách mạng. Ngoài ra trong cuộc sống luôn chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, gương mẫu trong cộng đồng, làm tròn bổn phận của người công dân. Ở trường trung học cơ sở Thái Thịnh – quận Đống Đa – thành phố Hà Nội hiện nay, vấn đề văn hóa ứng xử của học sinh là tương đối tốt. Tuy nhiên không phải là không có những biểu hiện đáng lưu tâm từ phía các thầy cô giáo và học sinh trong nhà trường. Đề tài này trình bày về vấn đề Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Hoạt động quản lí của hiệu trưởng trường trung học cơ sở thái Thịnh 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay 4. Giả thuyết khoa học Việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh đã có một số tiến bộ tuy nhiên còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn mới. Nếu có biện pháp quản lý hạt động giáo dục văn hóa ứng xử tích cực và phù hợp hơn thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện tại trường trung học cơ sở Thái Thịnh - quận Đống Đa. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài: Khái niệm 3
- Quản lí, Quản lí giáo dục, văn hóa, văn hóa ứng xử 5.2. Tìm hiểu thực trạng hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử và quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử của hiệu trưởng tại trường THCS Thái Thịnh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó và từ đó đề xuất biện pháp quản lí hoạt động giáo dục văn hóa úng xử của hiệu trưởng trường trung học cơ sở Thái Thịnh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài này tập trung nghiên cứu việc chỉ đạo hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử của hiệu trưởng trường trung học cơ sở Thái Thịnh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 6.2. Giới hạn địa bàn và khách thể điều tra: * Địa bàn nghiên cứu: Trường THCS Thái Thịnh - quận Đống Đa * Khách thể điều tra: 57 giáo viên và 122 học sinh. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu để xây dựng khung lí thuyết và các khái niệm công cụ làm luận cứ lí luận cho vấn đề nghiên cứu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn • Phương pháp điều tra viết: Trưng cầu ý kiến của cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường, phỏng vấn chuyên gia, cha mẹ học sinh về các biện pháp đã làm và đề xuất các biện pháp mới. • Phương pháp quan sát: Trực tiếp quan sát việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh của các Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và cha mẹ học sinh. • Phỏng vấn cán bộ, giáo viên nhà trường về thực trạng việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trườngvà hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp đề xuất trong đề tài 8. Phương pháp xử lí số liệu - Sử dụng thống kê như một công cụ xử lí các tài liệu (xử lí các thông tin định lượng như các con số , bảng số liệu và các thông tin định tính bằng biểu đồ) đã thu thập được từ các phương pháp nghiên cứu khác 4
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO HỌC SINH 1.1. Quản lý giáo dục 1.1.1.Khái niệm quản lý giáo dục Quản lý là một khái niệm rộng. Nó bao gồm cả sự quản lý sinh học, quản lý kỹ thuật và quản lý xã hội. Trên cơ sở các cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều cách diễn đạt khái niệm về quản lý khác nhau nhưng chúng đều có một điểm chung thống nhất như sau: “Quản lý là quá trình tác động có định hướng, phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu quản lý trong một môi trường luôn biến động. Chủ thể quản lý tác động bằng các chế định xã hội, tổ chức về nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất và uy tín, chế độ chính sách, đường lối chủ trương trong các phương pháp quản lý và công cụ quản lý để đạt mục tiêu quản lý”. Quản lý giáo dục là quản lý trong lĩnh vực giáo dục. Bàn về khái niệm này có nhiều ý kiến khác nhau, sau đây tôi xin nêu một số quan niệm cơ bản của các nhà khoa học. Trong tập bài giảng “Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục” tác giả Đặng Quốc Bảo có nêu: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triên giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân. [1] Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. [10] Như vậy, có thể thấy quản lý giáo dục là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu giáo dục đã định. 1.1.2. Các chức năng của quản lý giáo dục “Chức năng quản lý giáo dục là một thể thống nhất giữa hoạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu” 5
- Có nhiều cách tiếp cận với các chức năng quản lý giáo dục, phổ biến có 4 chức năng sau: + Kế hoạch hóa:là chức năng cơ bản nhất trong số các chức năng quản lý, chính là khâu dự báo xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, các bước đi để đạt đến mục tiêu đó. + Tổ chức: là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện đạt kết quả các kế hoạch do tổ chức đạt ra. + Chỉ đạo: là quá trình tập hợp các thành viên trong tổ chức trong mối liên hệ chỉ đạo chặt chẽ, động viên, hướng dẫn, điều chỉnh quá trình thực hiện nhiệm vụ nhất định của các thành viên để đạt được mục tiêu của tổ chức đặt ra. + Kiểm tra: là một chức năng quan trọng của quản lý, lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Mục đích của kiểm tra nhằm thực hiện tốt nhất ba chức năng: phát hiện, điều chỉnh và khuyến khích. Chức năng quản lý của hiệu trưởng là đo lường và điều chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng: các mục tiêu, các kế hoạch đặt ra. Để công tác quản lý đạt hiệu quả thì khâu kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên và có sự kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt. 1.1.3. Biện pháp quản lý giáo dục Biện pháp quản lý giáo dục là một tổ hợp các tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và toàn bộ hệ thống giáo dục đạt đến mục tiêu giáo dục đã định. Đối tượng quản lý giáo dục phức tạp đòi hỏi biện pháp quản lý của chủ thể phải đa dạng phong phú hợp với đối tượng quản lý. Biện pháp quản lý có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các phương pháp. Hệ thống các biện pháp quản lý giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt các phương pháp quản lý và đạt được mục tiêu giáo dục của mình. 1.2. Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh 1.2.1. Khái niệm văn hóa ứng xử 1.2.1.1. Văn hóa Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa: Định nghĩa văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sảng tạo trong quả khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu, những yếu tổ xác định đặc tính riêng của dân tộc”. Bàn về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra định nghĩa về văn hóa trong phần cuối của “ Nhật ký trong tù ” năm 1943 như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng 6
- tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật nhằm cung cấp cho sinh hoạt về ăn, mặc và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó là loài người đã sản sinh nhằm đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống và đòi hỏi của sự sinh tồn ” Văn hóa dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu Lê Văn Quán là: ”những tri thức khoa học văn hóa, sự hiểu biết, trình độ học vấn, trình độ tiếp thu và vận dụng những kiến thức khoa học. Hệ thống kiến thức được con người sáng tạo và tiếp thu, tích lũy, bổ sung và luôn luôn đổi mới qua các thế hệ thông qua lao động, sản xuất, đấu tranh giữa con người với tự nhiên và xã hội. Qua đó con người tiếp xúc, giao tiếp với nhau, hình thành nên những tập tục, những cách đối nhân xử thế nhất định. Sự hiểu biết được sử dụng làm nền tảng và định hướng cho nếp sống, nếp suy nghĩ, đạo lý, tâm hồn và hoạt động của mỗi dân tộc đạt tới chân, thiện, mỹ trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường xã hội và tự nhiên” [10; 32] Có thể nói văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống và sự tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội. Những giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong xã hội Từ những nhận định trên có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất: văn hóa bao gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chứ không chỉ đơn thuần là văn hóa tư tưởng hay văn hóa nghệ thuật. Thứ hai: văn hóa là sự sáng tạo của con người hướng tới chân, thiện, mỹ. Do đó nó là dấu hiệu tộc loại để phân biệt con người với động vật. Thứ ba: nói tới văn hóa là nói tới hệ thống với chức năng tổ chức xã hội, tính giao tiếp với chức năng điều tiết xã hội, tính lịch sử với chức năng, tính nhân bản với chức năng giao tiếp. Thứ tư: văn hóa về bản chất là quá trình phát triển mang tính người, là cái đặc trưng cho một cộng đồng dân tộc. Từ những định nghĩa và nội dung xem xét trên ta có thể đưa ra định nghĩa văn hóa như sau : Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hóa đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Văn hoá chính là yếu tố then chốt trong chính sách phát triển một quốc gia, là nguồn gốc bắt rễ của sự phát triển. Văn hoá là nền tảng để xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh, đồng thời cũng là động lực của sự phát triển. 7
- 12.1.2. Ứng xử Từ lâu vấn đề ứng xử của con người là một phạm trù được nhiều nhà tâm lí học, xã hội học, sinh học quan tâm. Khẳng định vai trò của sự ứng xử, nhà sư phạm người Nga Usinxki đã khẳng định “Sự khéo léo ứng xử về sư phạm mà nếu không có nổ thì các nhà giáo dục học dù giỏi tới mức nào cũng không bao giờ trở thành nhà thực hành giáo dục tốt, về bản chất không phải là cái gì khác là sự khéo léo đối xử”[13; 191] Ứng xử là một từ ghép gồm hai từ “ứng” và "xử”. Mà ứng và xử lại bao gồm nhiều nghĩa khác nhau: ứng phó, ứng đáp, ứng đối, ứng biến và xử sự, xử lý, xử thế Vấn đề ứng xử đã được nhiều người sử dụng khái niệm kép: giao tiếp- ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội, con người với gia đình và con người với chính mình. Ứng xử của con người, dù là đối tượng nào cũng không thể diễn ra theo một cách ngẫu nhiên, tùy tiện mà trước mỗi loại tình huống, con người đều ứng xử theo một cách nào đó sao cho phù hợp. ứng xử theo cách này, cách nọ là chấp nhận một cách ứng xử, là ứng xử theo những qui tắc riêng. + Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác, môi trường bên ngoài đối với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người với môi trường. + Ứng xử thể hiện ở chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán để thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng, ứng xử tùy thuộc vào trí nhớ, khả năng và nhân cách của mỗi người nhằm đạt được kết quả giao tiếp cao nhất. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người chung quanh và yếu tố bên ngoài tác động vào con người. Như vậy ứng xử là phản ứng của con người trước sự tác động của con người hay môi trường tự nhiên trong tình huống nhất định, ửng xử là biểu hiện bản chất nhân cách của mỗi cá nhân thông qua thái độ, lời nói, hành vi trước sự tác động của các yếu tố bên ngoài. 1.2.1.3. Văn hóa ứng xử Văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các giá trị về vật chất và tinh thần được sinh ra, lưu giữ và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là một hệ thống tổng thể của những yếu tố có quan hệ hữu cơ và mật thiết với nhau. Nếu ở một phương diện nhất định, người ta quan tâm đến văn hóa vật 8
- chất với những gì mang tính khách quan, thì mặt khác ở hiện tại người ta còn quan tâm tới một biểu hiện hết sức đáng chú ý của văn hóa, đó là ứng xử, văn hóa ứng xử, đó là văn hóa ứng xử của con người. Vì vậy trong cơ cấu hệ thống, văn hóa ứng xử là một bộ phận, quá trình cấu thành tổng thể của văn hóa và đến lượt nó văn hóa ứng xử lại là một hệ thống bao gồm những tiểu hệ thống cấu thành. Khi phản ứng lại những tác động khác nhau trong giao tiếp, con người thể hiện văn hóa của mình qua thái độ, hành vi, cách sử dụng ngôn ngữ để thu phục người khác.Vì vậy qua cách ứng xử, người ta có thể đánh giá người này có văn hóa hay không có văn hóa. Nếu xem văn hóa ứng xử là một hoạt động thì đó là hành vi nhằm thực hiện các khuôn mẫu mang tính lý tưởng kết tinh những giá trị và chuẩn mực mà cá nhân và cộng đồng hướng tới. Văn hóa ứng xử là một phương diện để thể hiện nhân cách và bản lĩnh của con người trong hoạt động thực tiễn gắn với trình độ văn hóa. Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết là ngôn ngữ của cử chỉ là phương tiện thể hiện văn hóa của con người, nó phản ánh quá trình hoạt động tạo ra lối suy nghĩ của con người. Ngôn ngữ gắn liền với học vấn và tính cách của con người, nó cho phép chia sẻ xúc cảm, tình cảm, ý nghĩ, tư tưởng, kinh nghiệm, khát vọng, trí nhớ, nhu cầu, tư tưởng của con người. Thông qua ngôn ngữ con người có thể hiểu được sự phát triển của văn hóa cá nhân và thời đại của văn hóa xã hội. Vì vậy khía cạnh văn hóa ứng xử thể hiện qua cách nói, viết và hành động. Điều đầu tiên thể hiện một người có văn hóa ứng xử là thái độ biết tôn trọng bản thân và người khác (đối tượng mình giao tiếp), ứng xử có văn hóa thể hiện rất đa dạng như trên đã nêu, nó thể hiện bằng: tính cách, cảm xúc, tình cảm .Tóm lại ứng xử có văn hóa là ứng xử thông minh nhất đem lại hiệu quả nhất, thông qua việc ứng xử và bản chất ứng xử có văn hóa cần có. Như vậy, theo cách hiểu trên, văn hóa ứng xử chính là: “Hệ thống tinh tuyển những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối tượng khác nhau, thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý trong quá trình phát triển và hoàn thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn mực của cá nhân, nhóm xã hội, toàn bộ xã hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng, bản sắc văn hóa một dân tộc, một quốc gia được cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội, thừa nhận và làm theo” [7; 27]. Còn dưới góc độ xã hội học, văn hóa ứng xử được hiểu là “hệ thống các khuôn mẫu ứng xử được thể hiện ở thái độ, kỹ năng ứng xử của cá nhân và cộng đồng người trong mối quan hệ với môi trường thiên nhiên, xã hội và bản thân, trên cơ sở những chuẩn mực văn hóa- xã hội nhất định để bảo tồn, 9
- phát triển của cuộc sống và cộng đồng nhằm làm cho cuộc sống của cá nhân và cộng đồng giàu tính người hơn ” [7; 36] Từ những phân tích và một số quan niệm trên có thể rút ra những điều chú ý cơ bản sau về văn hóa ứng xử như sau: - Văn hóa ứng xử là hệ thống tinh tuyển những nét ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối tượng khác thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý trong quá trình phát triển và hoàn thiện đời sống đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa trở thành bản sắc văn hóa một dân tộc, một quốc gia được các cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội thừa nhận và làm theo. - Văn hóa ứng xử là phương thức giao tiếp và sự bảo tồn mối quan hệ giữa con người với mọi vật xung quanh và giữa con người với con người. Phương thức ứng xử này đã được chọn lọc lâu đời bởi những cộng đồng người nhất định. Văn hóa ứng xử được hình thành từ những quan hệ đạo đức và thẩm mỹ của con người theo quy luật giá trị và sự hài hòa xã hội của con người và bao gồm những con người và sự tác động qua lại giữa những con người ấy với nhau và với thiên nhiên. Văn hóa ứng xử có ảnh hưởng tới các phản ứng của con người trước đối tượng giao tiếp và khả năng sinh tồn của mình. Văn hóa ứng xử gắn liền với thước đo mà xã hội dùng để ứng xử. - Văn hóa ứng xử chỉ thực sự có ý nghĩa, được phản ánh và trao truyền khi nó được cụ thể hóa qua những khuôn mẫu, hành vi, lời nói, tư duy, tâm lý, chuẩn mực, biểu tượng các chủ thể hành động nhằm ứng biến, ứng phó với những đổi tượng khác. - Văn hóa ứng xử được biểu hiện dưới hai dạng: + Hình thức trực tiếp: trong môi trường sống sinh hoạt (môi trường tự nhiên, môi trường tinh thần, tâm linh, môi trường nhóm xã hội, bản thể ) các môi trường này vô cùng đa dạng, phong phú thể hiện qua các mối quan hệ chồng chéo khác nhau. + Hình thức gián tiếp: Văn hóa ứng xử biểu hiện qua sự phản ánh các hình thức khoa học như: triết học, tâm lý học, văn học, xã hội học trong đó nổi bật là văn hóa dân gian và văn học nghệ thuật. - Văn hóa ứng xử có những vai trò cơ bản sau: Thứ nhất là: Văn hóa ứng xử góp phần phát triển con người mới. Nội dung xây dựng văn hóa cụ thể ở nước ta gắn trực tiếp với việc xây dựng, phát triển con người mới trong giai đoạn hiện nay Thứ hai là: Văn hóa ứng xử góp phần tích cực vào quá trình gắn kết phát triển văn hóa với phát triển con người. Thông qua xây dựng văn hóa ứng xử với thiên nhiên, xã hội và bản thân để hình thành các mối quan hệ khăng khít giữa phát triển văn hóa và con người. 10
- Thứ ba là: Văn hóa ứng xử góp phần điều tiết mối quan hệ thống nhất giữa con người - môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tóm lại có thể thấy: Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Đó chính là hệ thống giá trị, chuẩn mực quy định phương cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Ớ góc độ cá nhân, văn hóa ứng xử là thái độ, lời nói, hành vi của con người trước sự tác động của con người hay các yếu tố khác thể hiện trình độ văn hóa, sự hiểu biết, bản chất nhân cách của mỗi cá nhân trong các tình huống giao tiếp nhất định. Xét trên phạm vi rộng, văn hóa ứng xử của cộng đồng là tổng hòa những tính chất cơ bản nhất của các mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, các nhân và xã hội, dân tộc và quốc tế. Văn hóa ứng xử gắn với giá trị hệ thống tỉnh thần- văn hóa của con người. 1.2.2. Những đặc trưng của văn hóa ứng xử - Văn hóa ứng xử mang tính tập quán Như những trình bày, phân tích ở trên, mỗi nét ứng xử là một biểu hiện sự trình bày, ứng phó của chủ thể trước một tình huống, một đối tượng sao cho bộc lộ được vai trò xã hội mang tính khách thể hay nói như nói cách khác: ứng xử là những lề lối hành động hoặc những lề lối suy nghĩ và cảm thụ thích đáng của mỗi hạng vai trò xã hội trước một tình huống. Và những hệ ứng xử đó được lặp đi lặp lại, kết cấu với nhau tạo thành một hệ thống lớn mang tính văn hóa ứng xử được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác có sự kế thừa và bổ sung. Cũng bởi vậy văn hóa ứng xử mang tính tập quán, truyền thống đặc trưng riêng của mỗi cộng đồng người. Để phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội của mỗi dân tộc, bên cạnh nét văn hóa chung của loài người trong ứng xử thì mỗi một dân tộc lại có những nét ứng xử riêng chịu sự chi phối mạnh mẽ của phong tục, tập quán. Văn hóa ứng xử là tập hợp các hệ ứng xử được lặp đi lặp lại thành nếp, được kết cấu với nhau trong hệ thống lớn hơn, mang tính văn hóa ứng xử, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác với sự gạn lọc, bổ sung. Văn hóa ứng xử vì vậy mang tính truyền thống, tập quán như một dòng chảy không đứt đoạn. Tập quán về mặt thuật ngữ là những thói quen tồn tại lâu đời của một cộng đồng, là những hành vi được lặp đi, lặp lại thường xuyên trở thành thói quen bền vững ở một cộng đồng người nhất định. Văn hóa ứng xử quy định những hành vi ứng xử được chấp nhận hay không được chấp nhận trong tình huống ứng xử cụ thể. Có những tập quán ứng xử tốt đẹp, tồn tại lâu đời như một sự khẳng định về nét độc đáo của một nền văn hóa này so với nền văn 11
- hóa khác, song có những tập quán ứng xử có phần lạc hậu, tiêu cực cần phải xóa bỏ Từ xưa tới nay văn hóa ứng xử là một vấn đề được mọi người trong cộng đồng và xã hội quan tâm. Cùng một sự vật, hiện tượng nhưng con người ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại có cách ứng xử riêng, cái riêng đó lại chịu sự chi phối của những phong tục, tập quán Do đó văn hóa ứng xử thể hiện nguyên tắc sống của cá nhân, phản ánh phong tục trình độ văn hóa, đặc trưng dân tộc và thời đại. Trong sự phát triển của dân tộc Việt, dấu ấn lịch sử của một dân tộc lúa nước ảnh hưởng và chi phối rõ rệt đến cách ứng xử. Trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, văn hóa Hán xâm nhập vào nước ta và một sự tiếp xúc gần như là cưỡng bức đã xảy ra. Phong kiến phương Bắc muốn tìm cách áp đặt những chuẩn mực văn hóa cho dân tộc Việt bằng cách “đem thi thư để biến tục nước, lấy nhạc lễ để sửa lòng người ” nhằm truyền bá phong tục, tập quán, áp đặt chế độ chính trị, xã hội vào mọi lĩnh vực trong đời sống của dân tộc Việt. Chúng đồng hóa từ việc bắt dân ta phải để tóc, ăn mặc, sinh hoạt theo văn hóa Trung Hoa. Hàng ngàn ngôi chùa, miếu mạo của nhân dân ta xây dựng từ bao đời đã bị giặc phương Bắc tàn phá. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc ít nhiều các giá trị văn hóa dân tộc Việt dần bị mai một. Tuy nhiên với bản chất kiên cường, sức mạnh của truyền thống dân tộc, nhân dân ta đã đẩy lùi âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Những giá trị ứng xử truyền thống vẫn được gìn giữ, trao truyền qua các thế hệ mang bản sắc Việt. Từ những điều trên có thể khẳng định văn hóa ứng xử chịu sự chi phối mạnh mẽ của tập quán. Những nét phong tục, sinh hoạt truyền thống là cơ sở để hình thành văn hóa ứng xử. Nhưng bản thân văn hóa ứng xử cũng mang tính tiến hóa, kế thừa dựa trên sự sàng lọc các giá trị truyền thống và bổ sung các giá trị mới cho phù họp với thời đại. - Văn hóa ứng xử mang tính cộng đồng Văn hóa nói chung và văn hóa ứng xử nói riêng không thể tồn tại, phát triển từ chính bản thân nó mà phải dựa vào sự tạo dựng, tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên trong xã hội.Trong cuộc sống, con người không thể tách rời khỏi cộng đồng xã hộị. Bất kể trong môi trường nào, dưới chế độ xã nào, con người cần phải gắn bó với cộng đồng. Từ cách cư xử nhỏ nhất, lời ăn tiếng nói, cho đến cách đi đứng, làm sao cho mọi người vừa lòng: “ Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê”. Chính quá trình chung sống, cùng lao động sản xuất, đoàn kết chống thiên tai, địch họa đã tạo nên tính cộng đồng trong văn hóa ứng xử. Đó là những lề thói, những tập tục mà một cộng đồng người tuân theo một cách tự nhiên không cần phải ép buộc. Cá nhân nào đó làm khác đi sẽ bị cộng đồng lên án, xa lánh mặc dù xét 12
- về mặt pháp lý những hành vi của anh ta không hề phi pháp. Văn hóa ứng xử mang tính chất cộng đồng rõ nét. Nó biểu hiện ở hành vi ứng xử của các thành viên trong cộng đồng với nhau hoặc giữa các cộng đồng với nhau, ứng xử có văn hóa như một quy ước chung về hành vi ứng xử của các thành viên trong xã hội. Bản thân văn hóa ứng xử không thể ngẫu nhiên được hình thành mà phải được tạo dựng, vun đắp tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên trong xã hội. Đó là những lề lối, cách thức, những tập tục mà một cộng đồng người cùng tuân theo một nếp sống quen thuộc. Và đối với văn hóa ứng xử Việt Nam thì tính cộng đồng là một trong những đặc trưng cơ bản và biểu hiện rõ nhất là khi đất nước ta có nạn ngoại xâm. Một nghìn năm Bắc thuộc với sự thâm nhập theo đường lối cưỡng bức của văn hóa Hán, cuộc sống của làng xã sau lũy tre xanh vẫn tồn tại phương châm ứng xử “Phép vua thua lệ làng, Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Cơ chế làng xã có nhược điểm là cột chặt người nông dân vào những toan tính riêng rẽ, vụn vặt của một xã hội nông nghiệp, song mặt khác nó lại là mặt ưu điểm: cố kết thành một cộng đồng bền vững. Cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm suốt mấy nghìn năm của dân tộc ta kiên trì và quyết liệt nhằm xây dựng và bảo vệ xóm làng buộc mọi người phải đoàn kết lại với nhau, phải thực sự gắn kết với nhau “Thương người như thể thương thân”, trọng tình, trọng nghĩa, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn “Tay đứt, ruột mềm”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Người ta chê trách thói ăn ở bạc tình, cạn nghĩa trong cộng đồng. Tính cộng đồng trong văn hóa ứng xử của người Việt được kết tinh từ truyền thống yêu nước, tình đoàn kết, tình làng nghĩa xóm, tình cảm gia đình, dòng họ. Đó là những dòng chảy dạt dào chi phối cung cách ứng xử của con người trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp. Lấy tư tưởng cộng đồng làm chuẩn mực, con người không được phép phát triển cái tôi của mình mà chỉ có cái ta công xã. Sự phát triển của ý thức cá nhân bị kìm nén nhưng mặt khác cộng đồng lại bảo vệ được bản sắc văn hóa, bảo lưu được những giá trị văn hóa truyền thống. Tính cộng đồng được biểu hiện rõ nét khi đất nước có nạn ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết đặc trưng ứng xử cơ bản này của dân tộc Việt Nam trong bài viết về lòng yêu nước của dân tộc ta. Tính cộng đồng sẽ tạo ra “một làn sóng vô cùng to lớn, mạnh mẽ, nhấn chìm mọi bè lũ cướp nước và bán nước”. Tính cộng đồng chính là phương thức hợp lý để sống. Nó ảnh hưởng, chi phối, dẫn dắt các cá nhân sống và hoạt động theo lợi ích, củng cố cộng đồng và ngược lại cộng đồng sẽ giúp cho cá nhân phát triển. Cộng đồng sẽ bảo vệ, 13
- bao bọc cá nhân lại tạo thành sự vững mạnh của cộng đồng. Tuy nhiên ngoài việc đề cao tính cộng đồng trong ứng xử thì người Việt cũng như văn hóa Việt cũng có phép ứng xử rất linh hoạt, năng động, mang tính thích ứng cao. Sự linh hoạt, năng động, thích ứng này cũng mang tính chừng mực, hài hóa mà ít nghiêng về cực đoan, phần nhiều là ứng xử sao cho không phá vỡ tính cộng đồng xã hội ổn định “ Văn hóa Việt Nam chứa đựng sự kết hợp kỳ diệu của cái ổn định và cái linh hoạt. Con người ứng xử với nhau trên cơ sở sự tồn tại của cộng đồng ổn định ” [35; 311]. Đó là phép ứng xử văn hóa năng động trong khuôn khổ linh hoạt đối với từng trường hợp song không phá vỡ tổng thể, tôn vinh những cá nhân, nhóm nhưng cũng đặc biệt tôn trọng chuẩn mực cộng đồng nhất là khi các chuẩn mực đó đã trở thành luật lệ. Như vậy có thể thấy tính cộng đồng là đặc trưng cơ bản của văn hóa nói chung và văn hóa ứng xử của người Việt nói riêng. Tinh thần đoàn kết, lối sổng trọng tình, trọng nghĩa đã tạo nên nét ứng xử mang tính đặc trưng này. Sự linh hoạt, tính kế thừa của văn hóa ứng xử cũng dựa trên tính cố kết cộng đồng. - Văn hóa ứng xử mang tính dân tộc Văn hóa ứng xử mang đặc trưng văn hóa của từng dân tộc. Nó tạo nên nếp nghĩ và cảm nhận riêng của từng dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có những phong tục, tập quán, nếp sinh hoạt khác nhau đã quy định văn hóa ứng xử của từng dân tộc đó. Có những nếp ứng xử được chấp nhận ở nền văn hóa dân tộc này song lại không được chấp nhận ở dân tộc khác. Người Việt Nam bao giờ cũng lấy cái tâm, cái thiện làm gốc cho sự ứng xử. Tùy theo hoàn cảnh, tùy từng đối tượng mà ứng xử theo quan niệm lâu đời của cộng đồng, có tính đến giá trị thực tế trong những hành động và hành vi ứng xử. Người Việt cũng rất quan tâm tới những hình thức biểu hiện khi giao tiếp từ trang phục tới lời ăn tiếng nói. Cái đập vào mắt người ta trước hết là hình thức. Muốn ứng xử thuận lợi phải có một hình thức nhất định. Hình thức ở đây không chỉ có quần áo, dáng vẻ, mà còn là cách nói năng thể hiện con người mình tùy theo hoàn cảnh. Và nhân dân ta quan niệm cái đẹp của cá nhân trong ứng xử trước hết là cái đẹp hình thức. Dù chỉ là tương đối nhưng cái đẹp hình thức phải thống nhất với cái đẹp nội dung. Tóm lại văn hóa ứng xử mang tính dân tộc rõ nét. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi tộc người có hệ chuẩn ứng xử riêng biệt phù hợp điều kiện xã hội, bản tính người, sắc thái văn hóa, tâm lý cộng đồng và cá nhân. - Văn hóa ứng xử mang tính chủ quan Văn hóa ứng xử vừa mang tính cộng đồng vừa mang tính chủ quan. 14
- Nhưng đây là hai đặc trưng không có tính mâu thuẫn, đối lập. Một mặt mỗi cá nhân trong cộng đồng chịu sự chi phối từ những quy tắc ứng xử của cộng đồng, một mặt có sự lựa chọn phương cách ứng xử chủ quan trong mỗi tình huống. Văn hóa ứng xử biểu hiện rõ rệt nhân cách, bản chất của mỗi người. Qua cung cách ứng xử có thể thấy được trình độ văn hóa, đạo đức của mỗi cá nhân. Trong những tình huống, hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, con người chủ động lựa chọn phương cách ứng xử phù hợp thể hiện dấu ấn cá nhân rõ nét. Trong quá trình sống con người luôn đặt mình vào trong các mối quan hệ liên nhân cách khác nhau và chịu sự tác động ngoại cảnh. Do đó tùy từng hoàn cảnh tác động, môi trường giao tiếp mà con người lựa chọn cho mình hình thức ứng xử phù hợp. Cùng một yếu tố tác động song mỗi cá nhân lại có cách ứng xử khác nhau sao cho phù hợp thông qua cử chỉ, hành động, lời nói. Bởi vậy có thể khẳng định văn hóa ứng xử mang tính chủ quan đậm nét. Và tổng hợp lại nó tạo thành văn hóa ứng xử đặc trưng của mỗi người. Về bản chất không có ứng xử mang tính chung chung, trừu tượng, ứng xử không có vai trò: Con người không phải ứng xử để ứng xử, mà ứng xử là cụ thể hóa vai trò xã hội nhất định nào đấy. Người ta chỉ có thể xem xét, thẩm định một ứng xử khi căn cứ vào một vai trò xã hội mà ứng xử ấy là một diễn đạt cụ thể. Điều này cho thấy ứng xử hay văn hóa ứng xử chỉ thực sự có ý nghĩa, thực sự được phản ánh, trao truyền khi nó được cụ thể hóa qua những khuôn mẫu, hành vi, lời nói, tư duy, tâm lý, chuẩn mực, biểu tượng của các chủ thể hành động nhằm phản ứng lại các đối tượng trong những tình huống ứng xử khác nhau. Chủ thể ấy rất đa dạng bởi vậy hình thức ứng ứng xử cũng đa dạng phụ thuộc vào tính chủ quan và tính huống ứng xử cụ thể. Tóm lại có thể thấy: Văn hóa ứng xử một mặt chịu sự tác động của tính cộng đồng, tính dân tộc, tập quán truyền thống, mặt khác lại mang tính chủ quan của chủ thể. Trong mỗi tình huống giao tiếp, ứng xử chủ thể có thể lựa chọn cho mình cách phản ứng phù hợp nhất, tạo ra hiệu quả trong giao tiếp, ứng xử. - Văn hóa ứng xử mang tính khách quan Văn hóa ứng xử thể hiện tính chủ quan của từng cá nhân, từng dân tộc nhưng lại có quá trình hình thành tính lịch sử, xã hội, được chia sẻ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người. Mọi thành viên trong cộng đồng đều có khả năng lựa chọn cho mình những cách ứng xử sao cho phù hợp với từng tình huống, hoàn cảnh giao tiếp. Điều đó thể hiện mặt chủ quan của ứng xử. Tuy nhiên mỗi cá nhân đều bị chi phối bởi phương cách ứng xử từ môi trường, điều kiện giao tiếp. Văn hóa ứng 15
- xử của mỗi dân tộc, mỗi vùng dân cư đều có những nét khác biệt mang tính đặc trưng của từng địa phương. Nó thể hiện trong những phong tục, tập quán, nét sinh hoạt. Một mặt cá nhân chủ động lựa chọn cách ứng xử sao cho phù hợp nhất đối với từng tình huống giao tiếp, mặt khác phải căn cứ vào các yếu tố khách quan trên để có cách ứng xử khéo léo được các cá nhân trong cộng đồng đó chấp nhận. Thực tế có rất nhiều phương thức ứng xử được đánh giá cao đối với dân tộc, đất nước này song lại không được chấp nhận, đồng tình ở đất nước, dân tộc khác.Qua quá trình lịch sử, những phương thức ứng xử tốt đẹp sẽ được sàng lọc, lưu giữ và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là hệ thống các giá trị, chuẩn mực văn hóa quy định phương thức ứng xử cho mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Như vậy những nội dung chỉ ra ở trên cho thấy, một mặt văn hóa ứng xử mang tính chủ quan, đồng thời cũng mang tính khách quan. Hai đặc trưng này không mâu thuẫn mà bổ sung, tác động qua lại với nhau chi phối đến văn hóa ứng xử của từng cá nhân trong xã hội. - Văn hóa ứng xử mang tính kế thừa Bàn về văn hóa, Nghị trưởng Pháp Edouard Herriot đã đưa ra định nghĩa về văn hóa “Văn hóa là những gì còn lại sau khi người ta đã quên tất cả, là cái gì còn thiếu khi người ta đã học tất cả”. Với định nghĩa này, học giả đã khẳng định tính chất kế thừa của mỗi nền văn hóa nói chung và hệ văn hóa ứng xử nói riêng. Bởi văn hóa ứng xử cũng là một thành tổ văn hóa do đó văn hóa ứng xử cũng luôn biến đổi, tiến hóa, vận động và phát triển để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện môi trường xã hội. Văn hóa ứng xử là kết quả của sự tích lũy, kế thừa không ngừng trong quá tình phát triển lịch sử mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. Trong bài viết “Văn hóa ứng xử đôi điều suy nghĩ” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Duy Bằng đã khẳng định “Nói rộng hơn, cách ứng xử là nền tảng văn hóa, là vẻ đẹp cao sáng của tâm hồn, muốn có được đòi hỏi phải có sự uyên bác cùng với tài năng. Muốn giàu chỉ có thể vài năm, nhưng để có nếp sống hay, cách ứng xử có văn hóa có thể phải trải qua nhiều thập kỷ học hành và tiếp thu nghiêm túc [2]. Văn hóa ứng xử là một thành tố của văn hóa vì vậy nó mang tính chất giao lưu tiếp biến, kế thừa trong quá trình phát triển. Mỗi giai đoạn khác nhau, mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau con người lựa chọn phương thức ứng xử khác nhau trên tinh thần kế thừa, sàng lọc những giá trị để tạo hiệu quả trong ứng xử, giao tiếp. Chính quá trình kế thừa, sàng lọc cộng đồng đã làm cho bản thân nó giàu có và các nền văn hóa xích lại gần nhau. 16
- - Văn hóa ứng xử mang tính tiến hóa Một nền văn hóa được hĩnh thành và phát triển qua nhiều thế hệ vốn có tính bền vững và lâu dài. Văn hóa nói chung và văn hóa ứng xử nói riêng là sự sàng lọc và tích tụ qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhờ sự thường xuyên điều chỉnh, “Gạn đục, khơi trong”, chấp nhận các giá trị văn hóa mới phù họp mà các giá trị văn hóa mới thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được sự ổn định và không ngừng hoàn thiện mình. Sự sàng lọc, tích lũy qua thời gian làm cho các giá trị văn hóa ứng xử của dân tộc thêm phong phú, đa dạng. Văn hóa ứng xử cũng tuân theo quy luật tiến hóa đó: “Một nền văn hóa không bao giờ tĩnh tại và bất biến. Văn hóa luôn luôn thay đổi và rất năng động”[32; 12]. Tự thân mỗi nền văn hóa luôn điều chỉnh cho phù họp với trình độ và tình hình mới. Trong quá trình hội nhập và giao lưu, mỗi nền văn hóa luôn tiếp thu các giá trị tiến bộ hoặc tích cực của các nền văn hóa khác, bổ sung và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa truyền thống và ngược lại. Là một bộ phận của văn hóa, văn hóa ứng xử của một cộng đồng, một dân tộc không phải bao giờ cũng tĩnh tại và bất biến. Ngược lại nó luôn luôn thay đổi và rất linh hoạt. Nó luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và hoàn cảnh mới. Trong xu thế hội nhập hiện nay, các quan hệ xã hội ngày càng phức tạp hình thành các quan hệ giao tiếp khác nhau, ứng xử có văn hóa là điều kiện hết sức quan trọng để con người thực hiện các mục đích quan trọng khác. Đó cũng là cơ sở để hình thành các chuẩn mực văn hóa ứng xử mới trong mỗi nhóm, tập thể sao cho phù hợp. 1.2.3. Những biểu hiện của văn hóa ứng xử - Quan niệm, nhận thức của cá nhân về văn hóa ứng xử Nhận thức là khâu đầu tiên, quan trọng quy định đến việc hình thành những giá trị đạo đức, nhân cách con người, chỉ có hiểu biết đúng đắn đầy đủ các chuẩn mực đạo đức thì học sinh mới có cơ sở thực hiện những hành vi đạo đức phù hợp. Mỗi con người đều có những nhận thức, hiểu biết khác nhau về văn hóa ứng xử. Trình độ nhận thức đó được hình thành và phát triển qua quá trình giáo dục tự phát và tự giác. Nó là cơ sở để con người lựa chọn những phương thức ứng xử phù hợp với văn hóa, với bản thân. Trình độ nhận thức về văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân sẽ thể hiện ở việc phân biệt giữa những hành vi ứng xử có văn hóa và phi văn hóa; biết lựa chọn, sàng lọc những nét ứng xử đúng chuẩn mực để hoàn thiện mình. - Có thái độ đúng chuẩn mực trong ứng xử Không chỉ dừng lại ở nhận thức thì trình độ văn hóa ứng xử của mỗi cá 17
- nhân còn được thể hiện ở ý thức thực hiện các chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử phù hợp, đúng đắn trong mọi tình huống giao tiếp, ứng xử. Nền tảng của văn hoá ứng xử chính là cái tâm trong sáng, lành mạnh của người ứng xử; là việc thực sự tôn trọng danh dự, nhân cách và lợi ích của người hoặc tổ chức, cộng đồng, môi trường được ứng xử. Thái độ tôn trọng, ý thức giữ gìn và thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử có giá trị. Đó là việc thực hiện nghiêm túc các quy tắc ứng xử trong môi trường học tập, làm việc, ứng xử nơi công cộng. - Hành vi ứng xử văn hóa Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi trường hoạt động hàng ngày. Đây là biểu hiện cơ bản thể hiện trình độ văn hóa ứng xử của con người. Từ việc nhận thức, hiểu biết và có thái độ tích cực đối với các giá trị văn hóa ứng xử, mỗi cá nhân cần thực hiện các hành vi ứng xử đúng chuẩn mực thể hiện trình độ văn hóa trong nét ứng xử của mìnhễ Hành vi ứng xử có văn hóa được thể hiện trong quan hệ ứng xử trên các mặt: ứng xử đối với môi trường tự nhiên, ứng xử với mọi người xung quanh và ứng xử đối với chính bản thân mình. 1.2.4. Những tiêu chí đánh giá văn hóa ứng xử của học sinh Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh phổ thông cấp THCS có mục đích cơ bản là nâng cao nhận thức từ đó hình thành thái độ, niềm tin và mục đích thực tế để cổ vũ tính tích cực trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân để phù hợp với nhu cầu của cộng đồng. Vì vậy để đánh giá văn hóa ứng xử nói chung chúng ta cần phải xem xét cả hai mặt tinh thần và thực tiễn Mặc dù chưa có một cơ quan chức năng những tiêu chí cụ thể đánh giá văn hóa ứng xử của học sinh tuy nhiên căn cứ vào Luật giáo dục nội quy học sinh - sinh viên, quy định của nhà trường, khoa, lớp chúng tôi xây dựng những tiêu chí làm thước đo chuẩn mực văn hóa ứng xử của người học. Dựa trên nội dung Luật giáo dục, Quy chế học sinh - sinh viên của Bộ giáo dục và đào tạo, có thể đưa ra một số tiêu chuẩn đánh giá văn hóa ứng xử của học sinh như sau: Thứ nhất: học sinh phải có hiểu biết về văn hóa ứng xử Giáo dục văn hóa ứng xử là một quá trình tác động đến tất cả các mặt nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh. Những kiến thức về văn hóa, lịch sử dân tộc mà học sinh đã được tìm hiểu đã chứa đựng trong đó hệ thống giá trị văn hóa về ứng xử, giao tiếp; những hiểu biết về tập quán, truyền thống trong nét ứng xử của dân tộc, của mỗi vùng miền. Đó là nền tảng quan trọng cho 18
- học sinh rèn luyện vốn văn hóa ứng xử của mình. Mỗi học sinh cần phải được trang bị cho mình những hiểu biết chung về nội quy, quy chế học sinh, quy định của nhà trường, của lớp. Đó là hệ thống quy định quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của học sinh đồng thời quy định tiêu chuẩn trong cung cách ứng xử của học sinh, những việc học sinh được làm và không được làm. Ngay từ những buổi đầu tiên bước chân vào cấp học THCS, học sinh đã được cung cấp những nội quy của nhà trường, của lớp. Đây chính là căn cứ quan trọng để đánh giá ý thức, thái độ của học sinh trong suốt quá trình rèn luyện. Trước hết học sinh phải luôn luôn có thái độ tôn trọng giáo viên, cán bộ và nhân viên của nhà trường; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập và rèn luyện, thực hiện tốt nếp sống văn minh, văn hóa. Đối với cơ sở vật chất, cảnh quan của nhà trường, học sinh phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường, góp phần xây dựng và phát huy truyền thống của nhà trường. Đặc biệt học sinh phải thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục; tích cực, sáng tạo và có ý thức rèn luyện, trau dồi đạo đức, lối sống. Không ngừng đấu tranh với các hành vi gian lận trong học tập và thi cử. Học sinh cũng không được phép có những thái độ, hành vi ứng xử như: - Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, thân thể của giáo viên, cán bộ, nhân viên trong trường. - Có những hành vi gian lận trong học tập (quay cóp, mang tài liệu vào phòng thi). - Các hành vi gây rối trật tự, an ninh trong trường học, lớp học hoặc các nơi công cộng. Có thể nói một học sinh ứng xử có văn hóa trước hết là thực hiện nghiêm túc, gương mẫu những nội quy, quy chế của nhà trường. Trong mọi hoàn cảnh giao tiếp đều lấy đó là chuẩn mực ứng xử. Thứ hai: Học sinh cần phải có thái độ tôn trọng những quy định trong Luật giáo dục, Nội quy, quy chế của nhà trường, những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Thái độ ứng xử được xem là kết quả tổng hợp và biểu hiện năng lực của tư tưởng, đạo đức, lối sống trên cơ sở tính cách của mỗi người hay chính là kết quả và biểu hiện năng lực của nhân cách trong quá trình ứng phó và biểu hiện năng lực của nhân cách trong các tình huống giao tiếp nhất định. Có thể nói thái độ ứng xử đóng vai trò định hướng và có ý nghĩa xuyên suốt của văn hóa ứng xử. 19
- Hình thành thái độ, niềm tin của người học đối với nội dung giáo dục là mục tiêu quan trọng quả quá trình giáo dục nói chung và giáo dục văn hóa ứng xử nói riêng. Trên cơ sở người học có những nhận thức đúng đắn về văn hóa ứng xử và xem đó là những giá trị tích cực góp phần hoàn thiện nhân cách thì nó trở thành niềm tin thúc đẩy các cá nhân thực hiện các chuẩn mực đúng đắn trong văn hóa ứng xử. Mỗi học sinh phải luôn có ý thức tự giác cao độ trong việc hình thành nét ứng xử có văn hóa. Học sinh phải có những biểu hiện như: - Tìm hiểu, trân trọng những giá trị tốt đẹp trong truyền thống dân tộc, tập quán, phương cách ứng xử đúng đắn, phù hợp. Đồng thời phải có ý thức phát huy, phổ biến những giá trị văn hóa đó vào trong cuộc sống. - Học sinh phải luôn có ý thức tôn trọng, chấp hành tốt những nội quy, quy chế đã đề ra, coi đó là thước đo cho sự rèn luyện nhân cách của bản thân. Đây là nội dung quan trọng. Bởi căn cứ vào việc thực hiện những nội quy, quy chế đó mà người làm công tác giáo dục có thể đánh giá được trình độ văn hóa ứng xử của người học. -Sự khác nhau về độ tuổi, môi trường sinh hoạt, hoàn cảnh gia đình cũng có tác động đến văn hóa ứng xử của mỗi học sinh. Bởi vậy đế hình thành cho mình thái độ ứng xử đúng đắn, phù hợp thì học sinh phải có ý thức cầu thị, tìm hiểu những nét văn hóa tốt đẹp trong cách ứng xử của bạn bè, thầy cô, mọi người xung quanh. Hiện nay việc hình thành niềm tin hay định hướng thái độ tình cảm của học sinh đối với việc thực hiện những chuẩn mực văn hóa ứng xử trong môi trường nhà trường chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Và một trong những yêu cầu quan trọng là làm thế nào để học sinh hiểu và tin tưởng rằng nội dung văn hóa ứng xử là những chuẩn mực cần thiết cho quá trình hoàn thiện nhân cách người học. Đây cũng là mục tiêu quan trọng đòi hỏi sự quan tâm, sâu sát của người giáo dục, sự nỗ lực của người học và thời gian để đạt kết quả mong muốn. Thứ ba: Học sinh có ý thức thực hiện những nội quy, quy chế trong học tập và rèn luyện Nếu học sinh chỉ có nhận thức, thái độ đúng đắn đối với việc thực hiện những nội quy, quy chế thì đó là những điều kiện cần nhưng chưa đủ để khẳng định đó là một học sinh có văn hóa ứng xử Một tiêu chí cơ bản và là cơ sở thiết yếu để đánh giá là tính tích cực hoạt động xã hội của người học hay là mức độ biến những nội dung ứng xử vào thực tiễn. - Đối xử đúng chuẩn mực trong quan hệ với bạn bè và thầy cô Kính trọng và lễ độ đối với thầy cô giáo, cán bộ nhân viên nhà trường, đối với người lớn tuổi phải biết chào, dạ, thưa, cám ơn, xin lỗi đúng lúc. 20
- Học sinh khi giao tiếp với cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường phải có cách xưng hô và có thái độ đúng mực; tôn trọng, lắng nghe ý kiến của thầy cô, của cán bộ nhân viên nhà trường. Không được phép có phản ứng vô văn hóa trước mặt giáo viên, cán bộ nhân viên nhà trường. Trong giao tiếp, ứng xử, học sinh phải có thái độ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc, trong sáng. Học sinh không được sử dụng ngôn ngữ thô tục, nói tiếng lóng, chửi bậy. Có thái độ tôn trọng đối tượng giao tiếp, trung thực, hòa nhã, thân thiện, tôn trọng, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết với bạn bè, thân ái, giúp đỡ nhau tiến bộ trong học tập, không trêu ghẹo, hăm doạ các bạn, gây gổ mất đoàn kết, bè phái đánh nhau. - Có hành động thiết thực trong việc gìn giữ trang thiết bị, cơ sở vật chất trường học Có ý thức giữ gìn bảo quản của công, không dán giấy, viết, vẽ bậy lên bàn ghế, tường, các phương tiện khác, không ngồi, chạy nhảy trên bàn, trèo qua cửa sổ, gạch xé và bôi xóa các Thông báo, thông tin của nhà trường. Học sinh cần phải có ý thức gìn giữ trang thiết bị phòng, lớp học: không xô đẩy, cố ý phá hỏng bàn ghế, các loại thiết bị phục vụ cho việc học tập. Mỗi học sinh cần phải nâng cao ý thức bảo quản, giữ gìn trang thiết bị tại của nhà trường. Đó cũng là biểu hiện của văn hóa ứng xử của học sinh Học sinh cần tôn trọng mình, tôn trọng mọi người, giữ vệ sinh môi trường học tập có văn hóa, sạch sẽ, đồ ăn thức uổng không đem vào lớp học, không vứt rác, khạc nhổ bừa bãi ở khu vực lớp học, trong khuôn viên nhà trường; không bẻ cành, ngắt lá - Ý thức, thái độ trong học tập. Học sinh có ý thức chấp hành tốt nội quy của nhà trường. Trong giờ học không làm mất trật tự, làm việc riêng, không gục đầu xuống bàn, ghế để ngủ, giữ tư thế nghiêm chỉnh, khi muốn nói phải giơ tay, ra vào lớp phải xin phép giáo viên. Trong thi cử và kiểm tra không gian lận, mang tài liệu vào phòng thi, trao đổi bài với nhau, vẽ bậy vào bài thi, có hành vi vô lễ, đe dọa giáo viên và cán bộ coi thi. Thái độ chăm chỉ, cầu thị, luôn cố gắng hoàn thành tốt các bài tập được giao của học sinh cũng được xem là khía cạnh đánh giá văn hóa ứng xử của người học. - Học sinh phải có phong cách lịch sự, văn minh Học sinh đến trường phải ăn mặc đúng theo quy định của nhà trường. Học sinh có ý thức trau dồi tư cách hòa nhã, khiêm tốn, nói năng lễ độ, không nói tục, chửi thề, hút thuốc lá, gây gổ đánh nhau, xả rác bừa bãi. 21
- Trong lớp học, học sinh phải tôn trọng giáo viên, chú ý lắng nghe bài giảng, không nói chuyện, làm việc riêng, ngủ gật, sử dụng điện thoại di động. Rèn luyện phong cách lịch sự văn minh là yếu tố quan trọng để trở thành những học sinh gương mẫu, tiêu biểu góp phần hoàn thiện nhân cách. Như đã phân tích ở trên, văn hóa ứng xử là một phạm trù rất rộng, nội hàm lớn trong sự phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Trên đây là một số tiêu chí cơ bản làm căn cứ để đánh giá văn hóa ứng xử của mỗi học sinh. 1.2.5. Giáo dục văn hóa ứng xử 1.2.5.1. Giáo dục Trước tác động của các quan hệ xã hội, con người tiếp thu những giá trị, chuẩn mực xã hội, các kiểu hành vi được đánh giá là phù hợp với định hướng giá trị của bản thân. Quá trình thẩm thấu diễn ra một cách tự nhiên, không chịu sự ép buộc.Và giáo dục tác động nhầm hình thành mỗi cá nhân nhân cách hoàn thiện trong đó là khuôn mẫu, chuẩn mực ứng xử có văn hóa. Con người được sinh ra song nhân cách lại được hình thành và phát triển nhờ quá trình giáo dục. Sự tự giáo dục, giáo dục từ gia đình, từ xã hội làm nên nhân cách của mỗi cá nhân. Sự hình thành nhân cách thông qua quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội lịch sử bao gồm tri thức khoa học, kỹ năng lao động, văn hóa bằng cơ chế truyền thụ và tiếp thu hay quá trình giáo dục, hình thành “bản tính thứ hai” - bản tính người. “Giáo dục” trong Tiếng Anh - “Education” - vốn có gốc từ tiếng La tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm giáo dục do xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau. Trong Từ điển Tiếng Việt giáo dục được xem : “là một hoạt động tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đặt ra" Khái niệm “giáo dục trong các giáo trình Giáo dục học ở nước ta cơ bản được hiểu là "hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người " ‘‘Giáo dục là một hiện tượng xã hội, trong đó một tập hợp xã hội (nhóm người) đã tích lũy được vốn kinh nghiệm nhất định truyền đạt lại cho nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống xã hội, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội để xây dựng nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích xã hội” Trong khoa học sư phạm, giáo dục thường được hiểu theo hai phương diện hẹp và rộng: 22
- Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm tất cả những quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội (như nhà trường, gia đình, đoàn thể, cơ quan văn hóa giáo dục ) nhằm hình thành sức mạnh thể chất, sức mạnh tinh thần, thế giới quan, đạo đức và thẩm mỹ của con người. Như vậy có thể thấy giáo dục bao gồm quá trình tác động có mục đích, kế hoạch của môi trường tự nhiên, của nhiều yểu tố giáo dục, nhằm chuẩn bị cho người học có đủ điều kiện tham gia vào đời sống xã hội. Theo nghĩa hẹp, giáo dục chính là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, nhằm hình thành ở người học những quan điểm, niềm tin, những phẩm chất, hành vi đạo đức, đồng thời bồi dưỡng tình cảm, năng lực thẩm mỹ và năng lực rèn luyện thể chất. Giáo dục theo nghĩa này được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ xem xét trên ý thức mà quan trọng hơn là ở thái độ, hành vi của mỗi người. Trong nghiên cứu xã hội học, giáo dục được đề cập với nghĩa : Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần , thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần cỏ được những phẩm chất do yêu cầu đề ra. Giáo dục có vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người: - Giáo dục vạch ra phương hướng, tạo dựng những mô hình nhân cách phù hợp với các yêu cầu của xã hội hiện tại thông qua nội dung, mục đích giáo dục. - Giáo dục vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, của nhân loại để nhằm truyền thụ các giá trị truyền thống tốt đẹp được xem là nền tảng để hoàn thiện nhân cách của con người. - Giáo dục góp phần uốn nắn những hành vi, ứng xử lệch lạc trong sự hình thành nhân cách, tạo dựng các mẫu hình nhân cách mới phù hợp với yêu cầu của xã hội. Sự phát triển của cá nhân một mặt chịu sự tác động có mục đích của giáo dục, mặt khác, nó cũng là kết quả của quá trình tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân trong mỗi con người. Quá trình tự giáo dục có vai trò quan trọng phản ánh sự phát triển nhân cách và là điều kiện quan trọng của việc thực hiện những hoạt động thực tiễn của nhân cách mối người trong môi trường xã hội. Như vậy: Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp 23
- ứng các nhu cầu tồn tại và phát triến của con người trong xã hội đương đại. 1.2.5.2. Giáo dục văn hóa ứng xử Văn hóa ứng xử giao tiếp hàng ngày được hình thành từ nhiều yếu tố môi trường khác nhau, như gia đình, nhà trường và xã hội, được gom nhặt từ sự trải nghiệm trong cuộc sống, từ truyền thống: Nhỏ thì là gia đình, dòng tộc, làng, xã, ; lớn thì vùng miền, dân tộc, Quốc gia Văn hoá ứng xử ăn sâu và thấm nhuần trong mỗi con người, tự thân mỗi con người trau dồi và sàng lọc lấy để phục vụ cho công việc của mình. Có thể thấy giáo dục văn hóa ứng xử là một phương diện của quá trình giáo dục nhân cách con người, vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử thể hiện đan xen trong quá trình giáo dục đạo đức, phẩm chất thông qua các hình thức, con đường giáo dục khác nhau. Từ thực tiễn có thể khẳng định quá trình giáo dục văn hóa ứng xử được thể hiện qua hai con đường cơ bản: giáo dục tự phát và giáo dục tự giác (có định hướng, có mục đích). Giáo dục văn hóa ứng xử mang tính tự phát Biểu hiện của hình thức giáo dục này chính là quá trình xã hội hóa cá nhân. Giáo dục là hành vi mà thế hệ trưởng thành thực hiện đối với những thế hệ chưa sẵn sàng tham gia vào đời sống xã hội. Mục đích của giáo dục là khơi dậy và thúc đẩy trong đứa trẻ những trạng thái về thể chất, tinh thần và đạo đức, mà xã hội nhà nước nói chung và môi trường sống của đứa trẻ nói riêng, đòi hỏi đứa trẻ phải có. Chúng ta có thể thấy giáo dục cũng bao gồm cả việc xã hội hoá một cách có hệ thống thế hệ trẻ. Văn hóa ứng xử biểu hiện ở mọi mặt của đời sống cá nhân. Bởi vậy quá trình xã hội cá nhân cũng chính là hình thức của quá trình giáo dục văn hóa ứng xử. Xã hội hóa được xem là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó các cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hóa của xã hội như khuôn mẫu, tác phong, chuẩn mực, giá trị văn hóa xã hội để phù hợp với vai trò xã hội, phù hợp với xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xã hội hóa: nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố khách quan gồm yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội. Các yếu tố tự nhiên như: môi trường tự nhiên, thiên tai, tác động đến đời sống con người, con người thích nghi và có tác động trở lại. Các yếu tố xã hội như: văn hóa, quá trình đô thị hóa, cũng tác động đến con người. Nhân tố chủ quan (có vai trò quyết định) gồm các yếu tố: Sự thông minh, nhạy bén; kinh nghiệm sống, sự hiểu biết; khả năng thích nghi xã hội; thói quen, tâm lý, cá tính Mỗi cá nhân muốn hòa nhập với xã hội, cộng đồng mà họ đang sống thì bắt buộc họ phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực văn hóa ứng xử của cộng đồng, dân tộc đó. Những hệ giá trị trong chuẩn mực văn hóa ứng xử sẽ 24
- trở thành thước đo trình độ văn hóa ứng xử của cá nhân. Hoạt động thực tiễn sẽ giúp cá nhân lĩnh hội, tiếp thu các giá trị ứng xử đúng đắn phù hợp, nhận thức và phân biệt được những mặt tốt, mặt xấu trong văn hóa ứng xử. Đó là con đường tự giáo dục, tự nhận thức về văn hóa ứng xử của mỗi người trong xã hội. Môi trường sống, điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng đến việc hình thành văn hóa ứng xử của con người. Sự khác biệt trong văn hóa ứng xử giữa các vùng, miền là biểu hiện rõ nét sự tác động của yếu tố này Sự nhạy bén về tâm lý của mỗi cá nhân ảnh hưởng rất lớn đến việc tự giáo dục văn hóa ứng xử. Những người có trình độ hiểu biết, kinh nghiệm sống dày dặn sẽ có cách hành xử linh hoạt, mềm dẻo trong từng tình huống giao tiếp. Đặc biệt sự tự nhận thức, sự khéo léo sẽ giúp họ hòa nhập và thích nghi nhanh chóng với các hệ giá trị, chuẩn mực ứng xử của cộng đồng, môi trường họ sinh sống. Như vậy quá trình tự giáo dục góp phần hình thành văn hóa ứng xử của mỗi người thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân. Các yếu tố khách quan và chủ quan tác động ở nhiều mặt khác nhau trong việc hình thành văn hóa ứng xử. Giáo dục văn hóa ứng xử mang tính tự giác Tính định hướng, tổ chức của quá trình giáo dục chính là biểu hiện của yếu tố tự giác, chủ động trong dục nói chung và giáo dục văn hóa ứng xử nói riêng. Có thể thấy văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân được hình thành cơ bản qua các môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội. Đó được xem là “ tam giác” quan trọng đối với quá trình giáo dục đối với mỗi con người Giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình Gia đình là nhân tố đầu tiên tác động đến sự hình thành nhân cách cũng như nếp ứng xử của mỗi cá nhân từ khi sinh ra. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách vì gia đình có những điều kiện mà các môi trường giáo dục khác không có sống, tò câu chào, lời nói đến lòng trắc ẩn, sự cảm thông với người khác Và từ đó có những hành động cụ thể, ứng xử với nhau trong đời thường. Từ nhỏ, nếu cá nhân nào được giáo dục trong một gia đình nền nếp thì lớn lên họ dễ dàng trở thành công dân có văn hóa, phẩm chất đạo đức tốt. Những cung cách hành xử hạt nhân đầu tiên của mỗi đứa trẻ sẽ được bắt đầu từ gia đình. Con cái lệ thuộc, hay để ý và bắt chước cha mẹ. Do đó cha mẹ là người trực tiếp gieo vào tâm hồn trẻ những hạt giống yêu thương, trung thực, tốt bụng hay giả dối, gây hấn, bạo lực Chính bằng phản ứng và nhất là gương sáng của mình, cha mẹ đóng dấu lên tâm hồn trẻ niềm xác tín về cách hành xử đúng mực trong những pha giao tiếp đầu tiên của đứa trẻ. Đó là cách 25
- xưng hô, chào hỏi, sự lễ phép, kính trọng, lòng yêu thương Nhưng trái lại sự thiếu gương mẫu của cha mẹ, sống trong một gia đình không nề nếp sẽ gieo vào tâm hồn đứa trẻ những cách hành xử thiếu văn hóa, bạo lực, vô lễ Như vậy gia đình là hạt nhân đầu tiên hình thành nét ứng xử của mỗi cá nhân. Tóm lại, giáo dục trong gia đình là bước đầu tiên và quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng như nếp ứng xử của con người. Để giáo dục tốt văn hóa ứng xử cho con cái, các bậc phụ huynh phải luôn làm gương về cách ứng xử văn hóa, đúng chuẩn mực. Giáo dục văn hóa ứng xử từ xã hội Có thể thấy rằng nhân cách của mỗi cá nhân hình thành từ gia đình là hạt nhân đầu tiên và dần dần hoàn thiện từ môi trường xã hội, nhà trường. Trong đó xã hội là nhân tố quan trọng để giáo dục con người về mặt nhân cách nói chung và văn hóa ứng xử nói riêng. Từ những tình huống xã hội thực tiễn đã dần giáo dục cá nhân cách ứng xử phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Hình thức giáo dục gắn liền với cá nhân suốt cuộc đời. Trình độ văn hóa ứng xử là kết quả của quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, niềm tin của con người trong quá trình sống, học tập và lao động. Từ hoạt động thực tiễn mỗi cá nhân sẽ đặt mình vào các pha giao tiếp ứng xử khác nhau. Vì vậy họ tự sàng lọc, lựa chọn hành vi ứng xử tốt đẹp, đúng chuẩn mực và nhận thức, phân biệt được các hành vi ứng xử thiếu văn hóa từ đó có thái độ phê phán, đào thải. Cũng trong hoạt động thực tiễn, mỗi cá nhân có thể ý thức hành vi ứng xử văn hóa của mình để làm gương cho mọi người xung quanh đồng thời học tập từ người khác những nét ứng xử đẹp, đúng chuẩn mực. Như vậy, môi trường xã hội có vai trò quan trọng đối với việc giáo dục văn hóa ứng xử của cá nhân. Đây là quá trình giáo dục liên tục và lâu dài trong suốt cuộc đời của con người. Giáo dục văn hóa ứng xử trong nhà trường Thực tế, văn hóa giao tiếp và ứng xử từ lâu đã trở thành một vấn đề được nhiều người quan tâm. Trong nhà trường, vấn đề giao tiếp và ứng xử lại trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Nhà trường không chỉ dạy chữ mà còn dạy làm người cho các thế hệ học trò. Do đó, ngoài việc truyền thụ và tiếp nhận kiến thức thì giao tiếp ứng xử của thầy và trò trong nhà trường phải được coi là mẫu mực để giáo dục, rèn luyện những thế hệ học trò vừa có tài, vừa có đức. Văn hóa ứng xử là một trong những nội dung giáo dục của các nhà trường phổ thông cấp THCS. Nó được thể hiện qua hoạt động dạy và học, các hoạt động ngoại khóa của nhà trường Giáo dục văn hóa ứng xử thông qua quá trình dạy và học được tổ chức, thực hiện có mục đích, có kế hoạch, trang bị cho học sinh những tri thức về 26
- văn hóa ứng xử. Nội dung này lồng ghép vào tất cả các môn học, các buổi học tập về nội quy, quy chế của nhà trường, các buổi sinh hoạt tập thể. Nội dung giáo dục văn hóa ứng xử có thể nằm trong nội dung các môn học đã được quy định hay các buổi ngoại khóa do lớp, nhà trường tổ chức. Đặc biệt là qua từng bài giảng, các Thầy cô có thể truyền những kinh nghiệm ứng xử cho người học, làm giàu vốn tri thức của họ. Giáo dục văn hóa ứng xử thông qua các hoạt động, phong trào đoàn thể, văn hóa, văn nghệ trong nhà trường. Đây cũng là hình thức giáo dục văn hóa ứng xử thiết thực cho người học. Để giáo dục văn hóa ứng xử trong nhà trường được tốt thì hơn ai hết, mỗi người thầy, người cô chính là trung tâm trong việc truyền kỹ năng văn hóa giao tiếp tới học sinh bởi vì trường học là nơi truyền bá những nét đẹp văn hóa một cách khuôn mẫu và bài bản nhất, nét đẹp văn hóa trong giao tiếp, ứng xử. Thông qua hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh nhằm hình thành những quan niệm thống nhất về văn hóa ứng xử. Sự khác nhau về nhận thức sẽ dẫn đến những quan niệm, ứng xử khác nhau. Điều này xuất phát từ tính chủ quan của văn hóa ứng xử. Không thể áp đặt những khuôn mẫu ứng xử cho người học nếu họ không thừa nhận. Vì lẽ đó việc trang bị, cung cấp, làm rõ những nội dung của văn hóa ứng xử cho các thành viên hiểu, thừa nhận và chủ động thực hiện theo những chuẩn mực đó. Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh cũng chính là biến những chuẩn mực ứng xử đúng đắn, phù hợp trở thành giá trị tốt đẹp mà học sinh thừa nhận, tin tưởng và tự giác thực hiện chúng. Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong các trường phổ thông cấp THCS được xem như một quá trình xã hội. Nó biểu hiện thông qua chính những hoạt động giữa của Ban giám hiệu, giáo viên, cán bộ nhân viên và học sinh nhà trường. Hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử làm thay đổi cả đối tượng và chủ thể giáo dục. Kết quả được thể hiện qua sự phối họp giữa chủ thể và đối tượng giáo dục. Sự phối hợp đó được thể hiện trong mối quan hệ giữa học sinh với chính bản thân mình, học sinh – học sinh, học sinh – giáo viên, học sinh – cán bộ nhân viên nhà trường, học sinh – cơ sở vật chất, thiết bị trường học. Bàn về giáo dục văn hóa ứng xử, dưới góc độ tâm lý học, TS. Đoàn Trọng Thiều Trường ĐH Sư phạm TPHCM cho rằng: đó là sự giáo dục về cái tâm, giáo dục cho mọi người có cái tâm trong sáng, lương thiện, giáo dục cho con người cái đẹp và xây dựng các nguyên tắc giao tiếp, ứng xử. Mỗi người học vừa là chủ thể, khách thể của quá trình giao tiếp, ứng xử, đều là đối tượng cần được giáo dục về chữ tâm. 27
- Vậy giáo dục văn hóa ứng xử là quá trình tác động trực tiếp hoặc giản tiếp đến nhận thức, thái độ nhằm hình thành ở người học những hành vi ứng xử theo đúng chuẩn mực. Người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể tham gia vào việc giáo dục lối ứng xử tốt đẹp cho mọi người xung quanh. Đây là quá trình lâu dài, liên tục góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho người học. Quá trình giảo dục này được thực hiện trên các mặt giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội. Để nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh cần phải nắm vững sử dụng phối hợp cả hai hình thức giáo dục trực tiếp và gián tiếp. Giáo dục trực tiếp: chủ thể giáo dục trực tiếp hay chính là việc lên lớp hàng ngày của giáo viên truyền đạt những tri thức, chuẩn mực văn hóa ứng xử cho học sinh thông qua các bài giảng, các tình huống ứng xử trong thực tiễn. Giáo dục trực tiếp có vai trò quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về những chuẩn mực trong ứng xử. Tuy nhiên ở khâu này mới chỉ giải quyết được vấn đề nhận thức cho đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục chỉ thực sự đạt kết quả nếu nó tác động đển nhận thức làm thay đổi hành vi, thái độ và mong muốn thực hiện theo nội dung giáo dục. Mục đích cơ bản của quá trình giáo dục là hình thành ở người học những chuẩn mực ứng xử được thực hiện lặp đi lặp lại, trở thành thói quen khó thay đổi của mỗi học sinh. Quá trình giáo dục gián tiếp, văn hóa ứng xử có thể được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn xã hội của người học hay chính là sự tự giáo dục. Người học có thể tham gia vào các hoạt động tập thể như: học tập, lao động, các phong trào thi đua, các cuộc thi, chương trình, sinh hoạt ngoại khóa do nhà trường, do lớp tổ chức. Thông qua các hoạt động này mà học sinh nhận thức rõ hơn về bản thân, mọi người xung quanh, rút ra được những bài học, kinh nghiệm thực tiễn ứng xử. 1.2.6. Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh là quá trình người hiệu trưởng hoạch định tổ chức, điều khiển, kiểm tra hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong quá trình quản lý nhà trường nói chung và quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh nói riêng đều đòi hỏi người hiệu trưởng phải tác động và tạo điều kiện cho sự cộng tác tối ưu giữa cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp kế hoạch, áp dụng hài hòa các biện pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Để quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh đạt hiệu quả, cần chú ý các vấn đề sau: Quản lý việc xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục văn hóa ứng 28
- xử của giáo viên chủ nhiệm và các thành viên khác của nhà trường. Quản lý việc tổ chức các nội dung của hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Tiểu kết chương 1 Quản lý giáo dục là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục. Chất lượng giáo dục của một nhà trường có liên quan trực tiếp, chặt chẽ với trách nhiệm, với trình độ quản lý của người hiệu trưởng. Trong công tác quản lý nhà trường trung học cơ sở thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nói chung và hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh nói riêng là một nhiệm vụ trọng tâm của hiệu trưởng. Chính vì vậy người hiệu trưởng cần phải nắm vững những vấn đề cơ bản về quản lý, quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Trên cơ sở đó vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn nhà trường nhằm đạt mục tiêu đề ra. 29
- Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS THÁI THỊNH • 2.1. Vài nét về tình hình nhà trường. Trường THCS Thái Thịnh được thành lập từ năm 1974 và nằm tại trung tâm quận Đống Đa. Qua 40 năm xây dựng, nhà trường đã có nhiều đổi thay và phát triển. Năm học 2013-2014 trường có 1110 học sinh với 26 lớp. Từ năm 2010 trường đã được công nhận chuẩn quốc gia với 22 phòng học và đầy đủ các phòng thư viện, phòng thí nghiệm môn Sinh học, Vật lý, Hóa học, Công nghệ, Tin học Trong công tác xây dựng đội ngũ, đồng chí hiệu trưởng luôn tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng chuẩn, tổ chức tham gia bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm. Đến nay hầu hết giáo viên của trường đều có trình độ trên chuẩn, trong đó có 6 đồng chí đã đạt trình độ Thạc sỹ. Nhiều thầy cô giáo đã tâm huyết cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, nhiều thế hệ nối tiếp nhau đào tạo nhiều khóa học sinh trưởng thành. Với sự phấn đấu không mệt mỏi nhiều thầy cô đã được công nhận chiến sỹ thi đua các cấp, giáo viên dạy giỏi các cấp. Nhiều thầy cô đã được vinh dự nhận kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục. Mỗi thầy cô giáo trong nhà trường đều quyết tâm phấn đấu là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo. Về kết quả dạy và học: học sinh nhà trường thi vào lớp 10 trung học phổ thông luôn đứng vào tốp đầu của quận Đống Đa. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu cũng được nhà trường quan tâm đúng mức. Trong những năm gần đây, năm nào nhà trường cũng có học sinh dự thi và đạt nhiều giải cấp quận và thành phố. Về kết quả giáo dục đạo đức: hơn 90% học sinh nhà trường được đánh giá xếp loại đạo đức tốt. Công tác giáo dục văn hóa ứng xử cũng đã được nhà trường quan tâm. Nhà trường đã thực hiện nghiêm túc việc giảng dạy bộ tài liệu “Giáo dục nếp sống văn minh thanh lịch của người Hà Nội”. Việc giáo dục đạo đức học sinh – giáo dục văn hóa ứng xử còn được lồng ghép vào các môn học, đặc biệt là môn Giáo dục công dân. Nhà trường thường xuyên tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp với nhiều hình thức phong phú và bổ ích như văn nghệ, tham gia tìm hiểu kiến thức lịch sử qua những ngày kỉ niệm của đất nước nhằm giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống, và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Với những nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ giáo viên và toàn thể học 30
- sinh nhà trường, nhiều năm qua trường THCS Thái Thịnh đã được công nhận Tập thể lao động xuất sắc cấp Thành phố. 2.2. Thực trạng về giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh. 2.2.1. Vai trò của các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Thực chất của quá trình giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong nhà trường không phải là trách nhiệm của riêng ai, mà là trách nhiệm của các lực lượng giáo dục trong nhà trường. Vì vậy, nội dung giáo dục đạo đức cần được quán triệt trong mọi hoạt động. Khi nghiên cứu đề tài này ngoài việc điều tra 122 HS đại diện cho học sinh các lớp, tôi còn trao đổi và trưng cầu ý kiến của 57 giáo viên và cán bộ nhân viên trong nhà trường. Qua trao đổi, thăm dò, 100% cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên nhà trường cho rằng trong giai đoạn hiện nay thì vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Qua thăm dò về vai trò các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh, có kết quả như sau: Bảng 2.1: Vai trò của các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Chưa tích T Tích cực Bình thường Các lực lượng giáo dục cực T SL % SL % SL % 1 Chi bộ Đảng 35 61.4 22 38.6 0 0 2 Ban giám hiệu 39 68.4 18 31.6 0 0 3 Giáo viên chủ nhiệm 36 63.2 21 36.8 0 0 4 Giáo viên bộ môn 12 21.1 15 26.3 30 52.6 5 Ban phụ trách Đội 19 33.3 19 33.3 19 33.3 6 Đoàn thanh niên 23 40.4 14 24.6 20 35 7 Nhân viên nhà trường 9 15.8 21 36.8 27 47.4 8 Cán bộ lớp (HS) 32 26.3 68 55.7 22 18 Nhận xét: Qua bảng 7 ta thấy các lực lượng tích cực trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho HS: - Ban giám hiệu 68.4 % - Giáo viên chủ nhiệm 63.2 % - Chi bộ Đảng 61.4 % 31
- Thực tế đây là những lực lượng chỉ đạo thường xuyên của nhà trường kể từ khâu vạch ra chủ trương đường lối, xây dựng kế hoạch đến khâu tổ chức thực hiện, mọi yêu cầu của nhiệm vụ giáo dục đều được thực hiện thống nhất trong nhận thức và trong quá trình tổ chức thực hiện; Tuy nhiên, giáo viên bộ môn (52.6 %), nhân viên nhà trường (47.4%) và Đoàn thanh niên (35%) còn chưa tích cực trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Đây là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý của nhà trường cần quan tâm. Kết quả điều tra còn cho thấy tới cán bộ lớp, 18% ý kiến cho rằng cán bộ lớp chưa thực hiện đúng chức năng của mình. Chức năng của ban cán sự lớp là: - Đôn đốc HS trong lớp chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế về học tập, sinh hoạt, xây dựng nền nếp tự quản trong lớp. - Giúp đỡ các bạn gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện trong sinh hoạt. Giúp giáo viên chủ nhiệm quản lớp, nắm bắt tình hình của lớp - Phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Ban phụ trách Đội trong mọi hoạt động của Đội. Để làm tốt công tác giáo dục cho HS, trong đó nội dung giáo dục văn hóa ứng xử, các nhà quản lý cần quan tâm đến mọi hoạt động, đến mọi lực lượng liên quan, có như vậy mới tạo ra sự thống nhất trong quá trình giáo dục. 2.2.2. Những nội dung giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Mục tiêu đào tạo con người toàn diện nói chung và giáo dục văn hóa ứng xử cho thế hệ trẻ và đặc biệt là cho học sinh phổ thông đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” Để đánh giá việc thực hiện các nội dung giáo dục văn hóa ứng xử của học sinh, tôi tiến hành khảo sát 57 cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường. Kết quả thể hiện ở bảng sau: 32
- Bảng 2.2: Cán bộ giáo viên, nhân viên đánh giá việc thực hiện các nội dung giáo dục văn hóa ứng xử của học sinh trường THCS Thái Thịnh Mức độ thực hiện TT Nội dung Tốt Bình Chưa Điểm Thứ (3) thường tốt TB bậc (2) (1) 1 Biết kính trên, nhường dưới, trọng già quý trẻ, đoàn 38 15 4 2.60 4 kết thân ái với bạn bè 2 Không nói tục, chửi bậy. 10 13 34 1.58 10 3 Trung thực trong thi cử 25 17 15 2.18 5 4 Trang phục đến trường đúng quy định 25 10 22 2.05 7 5 Đi học đúng giờ, nghỉ học phải có giấy phép. 20 15 22 1.96 8 6 Chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, không 24 13 20 2.07 6 vượt đèn đỏ, không đi vào đường cấm, không tham gia đua xe và cổ vũ đua xe trái phép. 7 Không hút thuốc lá, không thử sử dụng ma túy dưới 57 0 0 3.0 1 mọi hình thức. Không bao che, không buôn bán và vận chuyển, tàng trữ ma túy. 8 Không xem, không lưu truyền các loại sách báo, 57 0 0 3.0 1 tranh ảnh có nội dung không lành mạnh, kích động bạo lực, mê tín dị đoan. Không chơi trò chơi ăn tiền dưới mọi hình thức. 9 Giữ gìn vệ sinh khung cảnh sư phạm trong lớp, 10 15 32 1.61 9 trong trường. Giữ gìn bảo vệ tài sản nhà trường. 10 Không đem theo vũ khí, gây gổ đánh nhau làm mất 50 6 1 2.86 3 trật tự an toàn xã hội. Số liệu ở bảng cho thấy, cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường đánh giá có bốn nội dung đã được học sinh nhà trường thực hiện tốt (Điểm TB >2.30), đó là: Hai nội dung “Không hút thuốc lá, không thử sử dụng ma túy dưới mọi hình thức. Không bao che, không buôn bán và vận chuyển, tàng trữ ma túy” và “Không xem, không lưu truyền các loại sách báo, tranh ảnh có nội dung không lành mạnh, kích động bạo lực, mê tín dị đoan. Không chơi trò chơi ăn tiền dưới mọi hình thức” đều đạt điểm tuyệt đối, xếp thứ nhất. Không đem theo vũ khí, gây gổ đánh nhau làm mất trật tự an toàn xã hội có điểm TB2.86, xếp thứ 3. Biết kính trên, nhường dưới, trọng già quý trẻ, đoàn kết thân ái với bạn bè có điểm TB 2.86, xếp thứ 4. Có hai nội dung thực hiện ở mức độ chưa tốt (Điểm TB < 1.70), đó là: Giữ gìn vệ sinh khung cảnh sư phạm trong lớp, trong trường. Giữ gìn bảo vệ tài sản nhà trường có điểm TB là 1.61 Không nói tục, chửi bậy có điểm TB là 1.58 33
- Bảng 2.3: Học sinh tự đánh giá việc thực hiện các nội dung văn hóa ứng xử của học sinh trường THCS Thái Thịnh Mức độ thực hiện TT Nội dung Tốt Bình Chưa Điểm Thứ (3) thường tốt (1) TB bậc (2) 1 Biết kính trên, nhường dưới, trọng già quý trẻ, đoàn 100 15 7 2.76 2 kết thân ái với bạn bè 2 Không nói tục, chửi bậy. 15 23 84 1.43 10 3 Trung thực trong thi cử 77 19 26 2.42 7 4 Trang phục đến trường đúng quy định 80 30 12 2.56 5 5 Đi học đúng giờ, nghỉ học phải có giấy phép. 75 25 22 2.43 6 6 Chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, không 10 65 47 1.70 8 vượt đèn đỏ, không đi vào đường cấm, không tham gia đua xe và cổ vũ đua xe trái phép. 7 Không hút thuốc lá, không thử sử dụng ma túy dưới 111 11 0 2.91 1 mọi hình thức. Không bao che, không buôn bán và vận chuyển, tàng trữ ma túy. 8 Không xem, không lưu truyền các loại sách báo, 97 10 5 2.59 4 tranh ảnh có nội dung không lành mạnh, kích động bạo lực, mê tín dị đoan. Không chơi trò chơi ăn tiền dưới mọi hình thức. 9 Giữ gìn vệ sinh khung cảnh sư phạm trong lớp, 20 35 67 1.61 9 trong trường. Giữ gìn bảo vệ tài sản nhà trường. 10 Không đem theo vũ khí, gây gổ đánh nhau làm mất 100 12 10 2.74 3 trật tự an toàn xã hội. Số liệu bảng 2.3 cho thấy, học sinh đánh giá không có nội dung nào đạt điểm tuyệt đối. Các nội dung được giáo viên đánh giá thực hiện tốt thì cũng được học sinh đánh giá đã thực hiện tốt. Nội dung “Trung thực trong thi cử” được giáo viên đánh giá thực hiện ở mức độ bình thường (Điểm TB là 2.18 2.3) Có hai nội dung giáo viên và học sinh đều đánh giá thực hiện chưa tốt. Đó là: Giữ gìn vệ sinh khung cảnh sư phạm trong lớp, trong trường. Giữ gìn bảo vệ tài sản nhà trường; Không nói tục, chửi bậy. Qua kết quả trên cho thấy: Văn hóa ứng xử của học sinh còn một số mặt thực hiện chưa tốt. 34
- 2.2.3. Các biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh Để tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, tôi đã khảo sát tìm hiểu các biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử và các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Kết quả như sau: Bảng 2.4: Thực trạng các biện pháp sử dụng giáo dục văn hóa ứng xử cho HS trường THCS Thái Thịnh. Mức độ Điểm Chưa Xếp T Thường Thỉnh trung Các biện pháp sử thứ T xuyên thoảng bình dụng bậc ( X ) 3đ 2đ 1đ 1 Sự gương mẫu của cán bộ, giáo 52 5 0 2.91 1 viên 2 Sự gương mẫu của nhân viên 41 11 5 2.63 2 3 Tổ chức các hoạt động ngoại 13 44 0 2.22 4 khóa, công tác từ thiện 4 Đổi mới phương pháp giảng 15 21 21 1.89 9 dạy bộ môn Giáo dục công dân 5 Giảng dạy nghiêm túc bộ tài 17 40 0 2.29 3 liệu Giáo dục nếp sống văn minh thanh lịch 6 Nói chuyện về tấm gương 12 32 13 1.98 8 7 Lồng ghép trong giảng dạy 10 19 28 1.68 10 chuyên môn 8 Nêu các quy định, yêu cầu thực 23 12 22 2.02 7 hiện 9 Phối hợp giữa nhà trường, gia 21 27 9 2.21 5 đình, xã hội 10 Nhắc nhở động viên 25 29 3 2.21 5 11 Phê phán hành vi, biểu hiện xấu 13 24 20 1.19 11 Nhận xét: Qua bảng 2.4, tôi nhận thấy, Sự gương mẫu của giáo viên, nhân viên đứng thứ nhất, thứ hai với điểm TB là 2.91 và 2.63, chứng tỏ tất cả các giáo viên đều gương mẫu, đây là điều đáng phấn khởi. Giảng dạy nghiêm túc bộ tài liệu Giáo dục nếp sống văn minh thanh lịch cũng được đánh giá có mức độ sử dụng bình thường, điểm TB < 2.3. Điều này 35
- cũng rất phù hợp với thực tế vì hiện nay mỗi năm học, học sinh Thủ đô cũng mới được học 6 tiết từ bộ tài liệu Giáo dục nếp sống văn minh thanh lịch. Nhưng tại sao “phê phán hành vi xấu”, “lồng ghép trong giảng dạy” là những tiêu chí rất cụ thể và có tác dụng giáo dục văn hóa ứng xử cũng rất tốt chỉ xếp ở thứ bậc thấp (10 - 11). Qua trao đổi với một số giáo viên ở các bộ môn ngoại ngữ, tin học, vật lý, hóa học do đặc thù của môn học này nên không thể hiện được các tiêu chí trên. Thực tế, khi dự giờ ở các bộ môn này, giáo viên thường nặng về truyền thụ tri thức bộ môn, sự kết hợp, lồng ghép nội dung giáo dục tình cảm qua các bài giảng còn ít được quan tâm. Mặc dù những tri thức khoa học đó bản thân nó đã chứa đựng nội dung giáo dục văn hóa ứng xử. Như vậy, việc giáo dục văn hóa ứng xử thông qua các hoạt động giảng dạy là biện pháp quan trọng, nhưng để các môn học có tác dụng đồng bộ, từng lĩnh vực khác nhau cần nhận thức đầy đủ về vấn đề này. Nhà trường cũng đã chú trọng việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh thông qua: Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, công tác từ thiện Đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân Nói chuyện về tấm gương Nêu các quy định, yêu cầu thực hiện Phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội Nhắc nhở động viên Tuy nhiên các biện pháp này đều có điểm TB < 2.3, được đánh giá ở mức độ bình thường. Qua điều tra thực tế, tôi thấy, trong thực tế trường trung học cơ sở Thái Thịnh cũng đã qua tâm đến việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh, tuy nhiên các biện pháp thực hiện còn chưa đồng bộ, chưa thường xuyên. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong nhà trường ở một số nội dung còn chưa tốt. 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục văn hóa ứng xử cho HS. Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục văn hóa ứng xử cho HS trường tHCS Thái Thịnh, tôi tiến hành khảo sát 57 cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên trong trường. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng 2.5. 36
- Bảng 2.5: Yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh Thứ TT Các yếu tố ảnh hưởng SL % bậc 1 Tích cực rèn luyện của học sinh 43 75.4 3 2 Ảnh hưởng của bạn bè và một số hành vi xấu 35 61.4 7 3 Đời sống vật chất 23 40.3 13 4 Quản lý xã hội 30 52.6 11 5 Giáo dục gia đình 37 64.9 6 6 Sự quan tâm của các đoàn thể 33 57.8 9 7 Sự quan tâm của đội ngũ GV và cán bộ quản lý 48 84.2 1 8 Nội dung và phương pháp giáo dục 40 70.2 4 9 Biện pháp tổ chức giáo dục 35 61.4 7 10 Việc quản lý trong nhà trường 45 78.9 2 11 Phong trào thi đua 30 52.6 11 12 Dư luận xã hội 32 56.1 10 13 Kiểm tra, đánh giá 39 68.4 5 Nhận xét Qua bảng 2.5, tôi nhận thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự rèn luyện văn hóa ứng xử của học sinh trong nhà trường: Sự quan tâm của đội ngũ GV và cán bộ quản lý 84.2% Việc quản lý trong nhà trường 78.9% Tích cực rèn luyện của học sinh 75.4% Nội dung và phương pháp giáo dục 70.2% Kiểm tra, đánh giá 68.4% Dựa vào số liệu trên ta thấy 84.2% cán bộ giáo viên, nhân viên cho rằng Sự quan tâm của đội ngũ GV và cán bộ quản lý là quan trọng nhất. Xét cho cùng thì công tác giáo dục văn hóa ứng xử trong nhà trường thật sự rất cần sự quan tâm của đội ngũ các thầy cô giáo và các thành viên trong nhà trường. Công tác quản lý cũng rất quan trọng và cần thiết, nó giúp xác định rõ biện pháp, nội dung cần thiết để hoạt động giáo dục đạt hiệu quả mong muốn. Việc tích cực rèn luyện văn hóa ứng xử của mỗi học sinh cũng rất quan trọng, quá trình tự rèn luyện tu dưỡng cũng cần có sự kết hợp với gia đình quản lý và phương pháp hoạt động phù hợp. Nếu có phương pháp tổ chức giáo dục phù hợp, quản lý khoa học thì những yếu tố khách quan, những ảnh hưởng xấu của môi trường bên ngoài ít có cơ hội tác động đến các em. Như vậy, việc GDĐĐ cho HS, SV phụ thuộc vào cả yếu tố khách quan 37
- và yếu tố chủ quan, chúng có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, sự giáo dục của nhà trường bị chi phối bởi các yếu tố khách quan, của quản lý xã hội, nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố chủ quan như thầy, trò, nội dung, phương pháp giáo dục trong đó vấn đề quản lý của nhà trường là một mắt xích quan trọng. 2.3. Thực trạng về quản lý hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh tại trường THCS Thái Thịnh. 2.3.1. Công tác kế hoạch hoá. Để nghiên cứu về công tác kế hoạch hoá việc giáo dục văn hóa ứng xử cho HS trường THCS Thái Thịnh, tôi đặt câu hỏi: “Anh (chị) cho biết kế hoạch quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh được xây dựng như thế nào?” Qua trao đổi với 57 cán bộ quản lý,giáo viên và nhân viên về công tác kế hoạch hoá, tôi thu được kết quả như sau: Bảng 2.6: Công tác kế hoạch hoá quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Mức độ Điểm Xếp Thường Thỉnh Không trung TT Lập kế hoạch thứ xuyên thoảng có bình bậc 3đ 2đ 1đ ( X ) 1 Theo từng tuần 34 12 4 2,6 1 2 Theo từng tháng 27 21 2 2,5 2 3 Theo từng học kỳ 28 21 1 2,5 2 4 Cả năm học 27 21 1 2,4 4 Nhận xét: Qua bảng 2.6 ta thấy kế hoạch hoá công tác quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh tập trung vào từng tuần và từng tháng (hoặc học kỳ), đây có thể nói nhà trường đã rất coi trọng công tác kế hoạch hoá quản lý công tác giáo dục này. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường kế hoạch hoá càng cụ thể và kiểm tra thường xuyên để đạt được kết quả cao nhất Kết quả đánh giá về mức độ đạt được được thể hiện ở biểu đồ 1 38
- Biểu đồ 1: Việc xây dựng kế hoạch công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh Chú dẫn biểu đồ 1 1. Phù hợp với điều kiện nhà trường 90% 2. Đúng đối tượng 68% 3. Chính xác 66% 4. Kịp thời 64% 5. Đầy đủ 60% 6. Không kịp thời 8% Nhận xét: Trong các tiêu chí đánh giá về mức độ đạt được của kế hoạch công tác giáo dục văn hóa ứng xử thì tiêu chí đầy đủ và không kịp thời được đánh giá thấp nhất. Theo tôi, đây là một trở ngại lớn làm cho công tác giáo dục văn hóa ứng xử chưa được đánh giá đầy đủ về các mặt, do đó chất lượng đánh giá chưa cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác này cần phải tiến hành kịp thời và đầy đủ về các mặt đánh giá. 2.3.2. Công tác tổ chức thực hiện kế hoạch. Công tác quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong những năm qua được Ban giám hiệu quan tâm và chỉ đạo sâu sát. Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã xây dựng những quy định cụ thể về thực hiện và kiểm tra để nâng cao chất lượng học tập, tăng cường hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Ngay đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường dành một tiết lên lớp triển khai tuần lễ giáo dục công dân, học tập nội quy, quy chế cho tất cả các lớp. Chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm cuối tuần phải sinh hoạt lớp của mình phụ trách. Các giáo viên thông qua con đường dạy học của mình để dạy người cho các em. Ngay từ đầu năm học trong việc xây dựng kế hoạch năm học Ban 39
- giám hiệu đã nhấn mạnh thông qua việc truyền tải kiến thức, các thầy, cô giáo phải lồng vào đó việc giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Muốn học sinh biến được trí tuệ thành hành động ứng xử có văn hóa, thì trước hết các giáo viên phải hành động đúng những điều đã dạy, để học sinh tin đó là điều thật, do đó vai trò của thầy, cô giáo có giá trị trực tiếp, quyết định sớm nhất trong việc hình thành văn hóa ứng xử cho các em. Như vậy, việc nhà trường chỉ đạo các lực lượng làm công tác giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa ứng xử càng cụ thể, thường xuyên và phối hợp chặt chẽ bao nhiêu thì hiệu quả công tác này càng cao, điều đó khẳng định tính cần thiết, vị trí quan trọng của các lực lượng làm công tác quản lý giáo dục. 2.3.3. Công tác chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Để hiểu rõ thực trạng về công tác chỉ đạo thực hiện, tôi đặt câu hỏi “Anh, chị đánh giá việc phối hợp giữa các lực lượng quản lý trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường trường học cơ sở Thái Thịnh như thế nào”. Kết quả được thể hiện ở biểu đồ . Biểu đồ 2: Kết quả đánh giá về việc phối hợp các lực lượng quản lý trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh. Chú dẫn biểu đồ 2 1. Có sự chỉ đạo, phân công cụ thể, rõ ràng cho tập thể cán bộ, giáo viên 2. Phối hợp tốt và tham gia đầy đủ các cán bộ, giáo viên và học sinh. 3. Có nội dung giáo dục văn hóa ứng xử cụ thể, rõ ràng cho HS. 4. Có sự phối hợp tốt giữa nhà trường - gia đình - xã hội 5. Chủ yếu là do bộ phận HS được giao nhiệm vụ thực hiện 6. Sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội chưa tốt 7. Phối hợp chưa tốt giữa cán bộ, giáo viên và HS. 40
- Nhận xét: Qua biểu đồ 2 ta thấy, công tác chỉ đạo giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh bên cạnh những mặt đạt được như: Có sự chỉ đạo, phân công cụ thể, rõ ràng cho tập thể cán bộ, giáo viên; phối hợp tốt và tham gia đầy đủ các cán bộ, giảng viên nhà trường và HS còn có những điều chưa làm tốt, chẳng hạn như: Sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội chưa tốt (18%), phối hợp chưa tốt giữa cán bộ, giáo viên nhà trường và HS (10%). Do vậy, theo chúng tôi công tác chỉ đạo trước hết phải tạo ra được sự đồng thuận giữa Nhà trường-Gia đình-Xã hội, phối hợp tốt giữa cán bộ, giáo viên nhà trường và HS. Có như vậy mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. 2.4.2.4. Công tác kiểm tra, đánh giá. Kết quả điều tra được thể hiện ở biểu đồ 3 Biểu đồ 3: Đánh giá kết quả rèn luyện của HS trường THCS Thái Thịnh. Chú dẫn biểu đồ 3 1. Theo năm học 66% 2. Theo học kỳ 62% 3. Chủ yếu do giáo viên chủ nhiệm 58% 4. Có nội dung, tiêu chí rõ ràng 50% 5. Đánh giá đầy đủ các mặt 42% 6. Tự đánh giá của học sinh 42% 7. Thường xuyên 38% 8. Chỉ chú trọng đến việc học tập 36% 9. Chủ yếu do tập thể HS đánh giá 30% 10. Chỉ chú trọng đến việc thực hiện nền nếp 26% 11. Không có nội dung, tiêu chí rõ ràng 6% 41
- Nhận xét: Kết quả trên cho thấy, việc đánh giá kết quả rèn luyện của HS nhà trường chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm (58%), theo chúng tôi cần phải khắc phục những mặt này để việc đánh giá được đảm bảo công bằng, chính xác và thường xuyên hơn. 2.4.2.5. Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Kết quả điều tra được thể hiện ở biểu đồ 4 Biểu đồ 4:Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho HS. Chú dẫn biểu đồ 4 1. Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các bộ phận tham gia giáo dục 2. Chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác QLGD đạo đức 3. Kiểm tra, đánh giá chưa thường xuyên 4. Khen thưởng, kỷ luật chưa kịp thời 5. Đội ngũ cán bộ chưa nhiệt tình 6. Công tác kế hoạch hoá còn yếu 7.Đội ngũ cán bộ chưa đào tạo cơ bản Nhận xét: Qua biểu đồ 4 ta thấy nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý GDĐĐ cho HS, SV là thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận tham gia giáo dục, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác QLGD đạo đức, chưa có kiểm tra, đánh giá thường xuyên của các cán bộ quản lý, giáo viên. Nhiều giáo viên còn chưa lồng ghép việc giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa ứng xử trong giảng dạy, còn cho đó là công việc của giáo viên chủ nhiệm 42
- Tiểu kết chương 2. Qua kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát, chúng tôi nhận thấy đại bộ phận HS nhà trường có nhận thức đúng đắn về vấn đề thực hiện văn hóa ứng xử, nhiều em biết đề cao giá trị của văn hóa ứng xử, coi nhiệm vụ học tập, rèn luyện tu dưỡng là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản, là mục tiêu cần hướng tới. Đây là chiều hướng tốt, là dấu hiệu đáng mừng cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nhà trường. Bên cạnh những yếu tố tích cực trên, thì còn một bộ phận HS còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình nhận thức như: Ngại phấn đấu trong học tập và rèn luyện, còn vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường, quay cóp trong thi, kiểm tra, đôi lúc các em còn ngại tham gia các hoạt động tập thể, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, thờ ơ với các phong trào thi đua của nhà trường đó là những biểu hiện thiếu lành mạnh của một bộ phận HS của trường. Trên cơ sở những nguyên nhân dẫn đến thực trạng ở trên tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp quản lý công tác giáo dục văn hóa ứng xử, nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế lệch lạc đang tồn tại trong HS hiện nay, tạo những chuyển biến mới về chất lượng trong việc quản lý giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh nhà trường. 43
- Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS THÁI THỊNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Nguyên tắc xác lập biện pháp. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường cấp THCS. Trong đó giáo dục văn hóa ứng xử trong giai đoạn hiện nay cho học sinh là rất cần thiết. Qua quá trình nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục văn hóa ứng xử, nghiên cứu các nghị quyết, định hướng của Đảng và Nhà nước về mục tiêu của giáo dục trung học trong giai đoạn hiện nay, qua thực tế tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử của trường THCS Thái Thịnh, tôi nhận thấy việc nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp chỉ đạo giáo dục văn hóa ứng xử ở trường THCS Thái Thịnh là hết sức cần thiết. Các biện pháp đề xuất được dựa vào những nguyên tắc cơ bản sau: 3.1.1. Tính thực tiễn Việc đề xuất biện pháp quản lý cần chú trọng đến tình hình cụ thể của địa bàn triển khai, phải thiết thực, trọng tâm và toàn diện để tăng cường hiệu quả của công tác giáo dục văn hóa ứng xử trong học sinh. Biện pháp được đề xuất cần phát huy được những mặt mạnh, khắc phục được những yếu kém, bất cập, giữ gìn những điều tốt đẹp tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Biện pháp đề xuất phải dựa vào các cơ sở pháp lý, để tạo nên sự thống nhất trong tổ chức, đảm bảo sự phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương và phù hợp với xu hướng phát triển giáo dục. 3.1.2. Tính kế thừa Từ điển tiếng Việt định nghĩa kế thừa là “Sự thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy”. Để xây dựng một biện pháp cần phải quan tâm đến cái hiện có, phải nghiên cứu xem nó đang diễn ra như thế nào, phần nào tốt thì cần giữ gìn phát huy, phần nào không phù hợp thì phải chỉnh sửa thay thế. Nguyên tắc kế thừa là cần thiết, nó thể hiện sự tôn trọng quá khứ, lịch sử, chỉ thay đổi những gì bất cập. Mặt khác, các biện pháp đề xuất cũng phải phát huy những tiềm năng vốn có của nhà trường, xã hội. 3.1.3. Tính đồng bộ Mục tiêu của giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, tạo ra những sản phẩm tốt nhất được phụ huynh và xã hội công nhận. Điều đó không phải là đơn giản vì vậy các biện pháp chỉ đạo phải đồng bộ và có mối tương quan với nhau, hỗ trợ nhau. Tuy nhiên cũng có 44
- biện pháp chủ đạo, biện pháp hỗ trợ nhưng cũng không thể coi trọng biện pháp này, xem nhẹ biện pháp khác. 3.1.4. Tính hiệu quả Hiệu quả của các biện pháp đề xuất được đánh giá bằng tác dụng của các biện pháp này với việc giải quyết tốt những tồn tại có trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh. Một biện pháp được coi là có hiệu quả khi biện pháp đó được triển khai và đạt kết quả như dự kiến và trong đó chi phí ít nhất mà đem lại hiệu quả cao nhất. Biện pháp giải quyết được vấn đề tồn tại mà không làm nảy sinh thêm vấn đề mới phức tạp và khó khăn hơn. Như vậy cần phải căn cứ vào 4 nguyên tắc cơ bản trên đây để xây dựng các biện pháp chỉ đạo hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong giai đoạn hiện nay. Khi sử dụng các biện pháp cần phối hợp các biện pháp một cách linh hoạt. 3.2. Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh trong giai đoạn hiện nay. 3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nhà trường về vị trí, tầm quan trọng của công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THCS Thái Thịnh. 3.2.1.1. Cơ sở và ý nghĩa Nhận thức là một yếu tố tiền đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến mọi hành vi của một cá nhân. Có nhận thức đúng thì mới có hành động đúng. Vì vậy, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cán bộ nhân viên nhà trường về công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Bởi lẽ, nhận thức là khâu đầu tiên của một quá trình hoạt động và có ý nghĩa rất lớn đến sự thành bại của mỗi công việc. 3.2.1.2. Mục tiêu cần đạt. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; các tổ chức đoàn thể trong nhà trường thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong giai đoạn hiện nay. 3.2.1.3. Tổ chức thực hiện. Làm cho các thành viên trong Hội đồng nhà trường, tuỳ theo nhiệm vụ công tác nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong giai đoạn hiện nay để mọi người cùng có ý thức và trách nhiệm với công việc này. Trước hết Ban giám hiệu, giáo viên, nhân viên phải được quán triệt sâu sắc, tầm quan trọng của công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong 45