Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

doc 8 trang thienle22 3390
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_tre_em_co_hoan_canh_dac_biet.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Tên đề tài: Giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Người thực hiện : Bùi Thị Yến. Trường: Tiểu học Cát Linh - Đống Đa - Hà Nội Hà Nội 4/ 2001 I. Lý do chọn đề tài Trong thời buổi kinh tế thị trường, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin, sự tiến bộ của khoa học–kỹ thuật đã làm thay đổi bộ mặt xã hội. Xã hội ngày càng đổi mới với những mặt tích cực, đời sống dân trí được nâng cao. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo biết bao sự tiêu cực, mặt trái của xã hội bị phơi bày. Một trong những mặt tiêu cực đó là trong xã hội đã có sự băng hoại về giá trị đạo đức của con người, tình cảm gia đình, ông bà, cha mẹ, con cái, anh em không còn nề nếp gia phong, nhân cách con người bị xuỗng cấp. Để góp phần giáo dục con người, chúng ta phải giáo dục trẻ em ngay từ trong nhà trường, nhất là những trẻ em chậm tiến mà nguyên nhân phần lớn số trẻ em này rơi vào những trường hợp gia đình có hoàn cảnh đặc biệt. Trong những gia đình kiểu này, một số không nhỏ trẻ em phát triển nhân cách không bình thường, tính tình các em rất thất thường, các em trở thành những trung tâm quậy phá, lười học hoặc những “cậu ấm, cô chiêu” làm đau đầu các bậc phụ huynh và nhất là những người làm công tác giáo dục và quản lý xã hội, đồng thời làm cho trật tự xã hội bị đảo lộn. Trước tình hình đó, tôi suy nghĩ rất nhiều làm thế nào để giáo dục các em thành những trẻ em có nhân cách, những con người sau này có ích cho xã hội. Bởi vì cácem chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, sẽ góp phần tạo dựng nên một xã hội công bằng, văn minh, thịnh vượng Vì thế trong năm học này tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”
  2. II. Nội dung những biện pháp tiến hành 1. Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh - Một trong những yếu tố quan trọng là tìm hiểu môi trường và hoàn cảnh sống của học sinh, bởi vì đó chính là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của các em ngay từ thủa ban đầu. Để làm được việc này, tôi tiến hành những biện pháp sau: - Tìm hiểu qua phiếu thông tin (điều tra sơ yếu lý lịch): phiếu thông tin này ngoài những thông tin cơ bản: họ tên bố, mẹ; địa chỉ; thêm cả hoàn cảnh sống; gia đình có mấy con; là con thứ mấy; sở thích; thường chơi với bạn - Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình: đến gia đình học sinh, tiếp xúc với bố, mẹ học sinh, tìm hiểu trực tiếp hoàn cảnh sống của học sinh đó. - Tìm hiểu học sinh qua bạn bè của em đó. - Tìm hiểu qua tổ dân phố (thông qua tổ trưởng dân phố hoặc công an hộ tịch phụ trách tổ dân phố đó). 2. Phân loại học sinh A- Căn cứ vào các yếu tố: Hoàn cảnh kinh tế gia đình (3 mức): Khá, Trung bình, Nghèo. Gia đình thực hiện nếp sống văn minh không: - Gia đình hoà thuận. - Gia đình lục đục (do kinh tế nghèo, do bất hoà giữa bố mẹ). - Gia đình có bố mẹ ly hôn hoặc bố (mẹ) mất. - Gia đình đông con, bố mẹ, anh em hay cãi nhau. - Gia đình khá giả nhưng nuông chiều con. Dựa vào học lực và đạo đức học sinh: - Học sinh khá, giỏi-hạnh kiểm tốt. - Học sinh khá-hạnh kiểm khá. - Học sinh yếu, kém-hạnh kiểm khá. B- Phân loại thành các đối tượng: Căn cứ vào các yếu tố trên của bản thân học sinh và gia đình, tôi chia thành 2 loại:
  3. Trẻ em có hoàn cảnh bình thường: Mức sống gia đình trung bình khá trở lên, bố mẹ hoà thuận, quan tâm đến con cái là điều kiện môi trường tốt nhất hình thành nhân cách tốt cho các em. Các em trong những gia đình này thường ngoan, chăm học, biết nghe lời. Đây là những cán bộ nòng cốt của lớp: Huy Hùng, Ngọc Lan, Duy Quang, NgaB, Mai, Hoa, Mỹ Hạnh Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tôi phân loại thành 5 loại đối tượng: - Loại 1: Trẻ em thuộc gia đình có mức kinh tế trung bình, không đông con nhưng bố mẹ ít quan tâm đến con cái, lo kiếm sống, suốt ngày để các em lêu lổng, không quản lý giờ giấc Số trẻ em này rất tự do, bừa bãi, hay quậy phá, học ít chơi nhiều, thỉnh thoảng chốn học, nói dối cha mẹ, thầy cô, hay cãi người lớn, không biết nghe lời, ít có lòng tự trọng (Hồng Phúc, Hoàng Giang). - Loại 2: Trẻ em thuộc gia đình thiếu bố (mẹ) hoặc cả 2. + Có bố mẹ ly hôn hoặc bố mẹ hay cãi nhau. Số tre em này thường có tính khí bất thường, có em quậy phá, hờn giận, đánh nhau, tự ti, ủ ê, lúc nào cũng mặc cảm thua kém và tự xa lánh bạn bè (Gia Đức, Bách Tú). + Trẻ em ở với ông bà (bố mẹ ly hôn) thường là khó bảo hay hờn giận,cáu kỉnh vô cớ, đanh đá, thường cầm đầu các trò cãi lộn, gây bè phái (Trà Giang). - Loại 3: Trẻ mồ côi hoặc bố mẹ mất (Thu Hương), kinh tế khó khăn, trẻ hiếu động, nghịch ngợm hoặc nhút nhát, thiếu sự quản lý của bố hoặc mẹ nên giáo dục bị hạn chế. - Loại 4: Trẻ em thuộc gia đình khá giả có của hoặc bố mẹ có chức quyền là con những được cha mẹ nuông chiều Số này như những ‘ông trời con, cậu ấm, cô chiêu”, tính khí đỏng đảnh, muốn gì được đấy hay dỗi, thích thì làm không thì thôi, đôi lúc còn tỏ ra khoe khoang coi thường bạn (Ngọc Bích, Đăng Trường, Quyết Hải). - Loại 5: Trẻ em thuộc gia đình nghèo đông con, số này thường mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh và thân phận không bằng bạn bè, tự tách biệt khỏi tập thể. Các em này luôn trong tình trạng lòng tự trọng bị tổn thương. Tôi đã phân học sinh thành các loại trên để có biện pháp giáo dục cho thích hợp. III/ Các biện pháp giáo dục 1.Biện pháp 1: Giáo dục trực tiếp, gần gũi hoàn cảnh của các em và có biện pháp giáo dục linh hoạt vơi từng đối tượng.
  4. Loại 1: Lớp tôi loại 1 có 2 em (Hồng Phúc, Hoàng Giang). 2 em này có hoàn cảnh gần giống nhau. Bố mẹ làm nghề tự do, suốt ngày lo kiếm sống, ít quan tâm đến các em nên ngoài giờ đến trường các em suốt ngày lang thanng trên đường phố hoặc vào các nhà hàng chơi điện tử, loại này học ít, chơi nhiều, đến lớp thường muộn giờ do thời gian ở nhà không sắp xếp có giờ giấc, có hôm thức khuya xem phim hoặc bóng đá, sáng ngủ quên hoặc có hôm tự ý bỏ học mà gia đình không hay biết. Trong lớp học các em hay nghĩ ra trò tinh quái: dính kẹo cao su xuống ghế ngồi của các bạn, du bàn ghế khi bạn viết bài, cắt trộm tóc của các bạn nữ ngồi đằng trước, buộc giấy vào đuôi áo các bạn Với đói tượng này, tôi đã gần gũi các em vừa bằng tình cảm, vừa nghiêm khắc cảnh cáo phê bình và chỉ ra hậu quả để các em sửa chữa. - Thấy được hậu quả của việc mái chơi, lãng phí thời gian kết quả học tập sút kém ảnh hưởng đến việc rèn luyện tư tưởng đạo đức. - Triệu tập cuộc họp riêng đối với cha mẹ. Đối với 2 học sinh này, giáo viên lập nhật ký theo dõi có nhận xét của các thầy cô giáo dạy môn phụ, kết quả điểm học các môn, nhận xét của cán bộ lớp về tư cách đạo đức, kỷ luật, học tập của học sinh đó để bố mẹ phối hợp với thầy cô trong việc giáo dục cụ thể: Học sinh và cha mẹ cùng làm cam kết thực hiện những nội quy yêu cầu của nhà trường, của lớp đề ra. - Lập thời gian biểu để học sinh thực hiện ở nhà, có sự giám sát của cha mẹ. - Đột xuất cô chủ nhiệm và cán bộ lớn đến kiểm tra góc học tập và giờ giấc học tập đã đăng ký ở nhà. - Phân công học sinh khá, giỏi kém cặp. Những học sinh được phân công giúp bạn điều chỉnh giờ học cho phù hợp, giảng bài cho bạn, học cùng bạn và trong lớp nhắc nhở động viên và kiểm tra vở ghi chép của bạn. Loại 2: Bố mẹ ly hôn, học sinh hoặc ở với bố hoặc ở với mẹ hoặc ở với ông bà, lớp tôi có 3 em: Gia Đức ở với mẹ, tính nhút nhát tự ti hay mặc cảm, xa lánh bạn bè, học kém; Bách Tú ở với ông bà tính khí không đều, bất cần hay gây sự học được nhưng không chăm chỉ và cố gắng, chữ viết xấu; Trà Giang đanh đá, gây bè phái, hay gắt, đánh bạn, học khá, chữ viết đẹp mạnh dạn phát biểu. Tôi gần gũi những em này động viên, giao cho Trà Giang những công việc có tính mạnh mẽ, giúp em lấy lại thăng bằng. Dần dần em đã tham gia vào công tác bán báo, giúp bạn chữ xấu rèn chữ. Đối với Bách Tú, tôi phải khuyên nhủ lấy những gương người tốt ở trường hoặc lớp, trên báo để so sánh; đồng thời giao cho em làm cán bộ theo dõi kỷ luật trong các giờ sinh hoạt ngoại khoá. Em đã phát huy vai trò của mình trở thành một cán bộ năng nổ, có trách nhiệm, tuy nhiên với em Bách Tú, tôi vẫn luôn nghiêm khắc với tính khí bất thường của em khi em tiến bộ phải động viên kịp thời những mặt tích cực. Loại 3: Bố hoặc mẹ mất. Cácem loại này thiếu bố hoặc mẹ nếu là trẻ sống nội tâmn thì đó là một đòn giáng mạnh vào em, sẽ gây ra cú sốc tâm lý; nếu là trẻ cứng rắn sẽ tỏ ra bướng bỉnh khó dạy bảo. lớp tôi có em Thu Hương là một học sinh hạnh kiểm khá,
  5. bướng bỉnh. Hiểu được hoàn cảnh của em, tôi gần gũi khuyên nhủ em cho em thấy rõ hoàn cảnh mình không giống các bạn khác phải thương bố hơn, đồng thời phát huy mặt tích cực của em là học khá, hướng em vào các hoạt động của tập thể như chữ thập đỏ, kỷ luật (mặc dù em đã vi phạm nhiều lần), vừa để em làm vừa nghiêm khắc với những hành vi của em. Em Thu Hương thấy mình được cô tin tưởng, giao cho nhiệm vụ dần dần em đã có chuyển biến rõ rệt. Loại 4: Loại gia đình có của, chiều con. Loại học sinh này tính khí thất thường, đỏng đảnh Tôi gần gũi, phân tích cho cácem thấy rõ tác haị của tính được nuông chiều, ỉ lại, không có nề nếp và nhất là có thái độ, ý thức không đúng mức với cha mẹ nghĩa là học hộ cha mẹ, hơi một chút là dỗi không ăn, khóc, làm cho bố mẹ phải chiều theo mọi sở thích Những gia đình này có của nên không tiếc con thứ gì, đầu tư cho con rất nhiều nhưng kết quả không được là bao. Tôi chủ động gặp gỡ bố mẹ, bàn bạc và góp ý với họ về biện pháp giáo dục và có kế hoạch, không chiều theo sở thích của các em và nghiêm khắc với những sai phạm. Nếu gia đình không giáo dục được sẽ đưa ra tổ dân phố, đưa ra kỷ luật trước lớp. Ví dụ : Em Đăng Trường, Quyết Hải vi phạm thường xuyên về nề nếp học tập, đi học muộn, ăn mặc nhố nhăng, nhuộm tóc giờ học không ghi chép bài, nói chuyện, quay ngang quay ngửa, khuấy động lớp người lớn nói không nghe còn cãi lại, luôn nghĩ ra mọi trò nghịch Tôi đã phải thực hiện nhiều biện pháp cứng rắn đưa ra kỷ luật trước lớp. Lúc đó, em Đăng Trường và Quyết Hải mới có chuyển bến nhưng chưa rõ rệt lắm. Loại 5: Gia đình nghèo, đông con Số học sinh thuộc những gia đình này thường mặc cảm, tự ti nên kết quả học tập thường sút kém. Tôi gần gũi động viên các em: Minh Trí, Minh Tùng, đưa các em vào các hoạt động tập thể, đồng thời vận động các học sinh ngoan, học sinh giỏi gần gũi giúp đỡ các bạn về vật chất và tinh thần, giúp bạn học tiến bộ, học cùng với bạn. Kết quả 2 em này tiến bộ rất nhanh. Minh Trí và Minh Tùng từ học sinh yếu đã trở thành học sinh trung bình, hạnh kiểm tốt. 2. Biện pháp 2: Giáo dục thông qua các hoạt động tập thể. Mỗi đợt thi đua lớp và Đội có tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động tập thể: thi tìm hiểu 990 năm Thăng Long-Hà Nội, hái hoa dân chủ, tìm hiểu các ngày truyền thống 20- 11, 8-3 và sưu tầm tập san 26-3. Tôi phân các em này ra theo khả năng của các em, ví dụ như: em Quyết Hải, Đăng Trường, Ngọc Bích trang trí lớp: em Trà Giang, Bách Tú tham gia văn nghệ; Gia Đức khéo tay cắt những bông hoa phục vụ cho tiết sinh hoạt hái hoa dân chủ Hoạt động thể dục, thể thao khuyến khích tạo điều kiện cho các em tham gia vào các hoạt động có ích, các em bớt trò quậy phá trong lớp: - Đội cờ vua, cớ tướng có Gia Đức, Hồng Phúc tham gia.
  6. - Đội bóng đá có Đăng Trường, Quyết Hải, Hoàng Giang. - Đội điền kinh có Minh Trí, Minh Tùng. Đội chữ thập đỏ-đội sao đỏ có Thu Hương, Bách Tú, Hồng Phúc. 3. Biện pháp 3: Giáo dục thông qua hình thức kết bạn. - Lập các đôi bạn cùng tiến. Động viên các em khá, giỏi kèm cặp, giúp đỡ các bạn yếu kém. Các em này vừa giúp đỡ về học tập vừa giúp về tinh thần, tránh cho các bạn sự mặc cảm. - Chọn các bạn giúp đỡ đều là học sinh khá, giỏi là cán bộ lớp, nhiệt tình với bạn và có trách nhiệm. - Lên kế hoạch giúp đỡ, mỗi tuần giúp bạn một buổi (sáng thứ bẩy), giảng bài bạn chưa hiểu, kiểm tra bài vở của bạn trong tuần, báo cáo kết quả cho cô giáo chủ nhiệm, có sổ theo dõi cụ thể tình hình tiến bộ của bạn. 4. Biện pháp 4: Giáo dục kết hợp với Hội CMHS và CMHS. - Hàng tháng sơ kết kết quả học tập của học sinh thông qua hội cha mẹ, thông báo đến cha mẹ học sinh (thông tin 2 chiều) bằng bài kiểm tra, sổ liên lạc. - Hàng tháng kết hợp với Hội CMHS để khen thưởng và động viên kịp thời đối với học sinh có tiến bộ. - Hàng thág cùng đại diện cha mẹ học sinh và cán bộ lớp xuống nhà các em để kiểm tra góc học tập và thời gian học của các em ở nhà. - Đối với học sinh nghèo, giúp đỡ về vật chất (sách, vở). Đối với học sinh hay quậy phá có kế hoạch giúp đỡ và theo dõi sự tiến bộ của các em, khen chê kịp thời. III. Kết quả Trên đây là những biện pháp mà tôi đã thực hiện trong năm học vừa qua và đã đạt được một số kết quả như sau: - Số học sinh chậm tiến đầu năm 2 học sinh. Cuối năm không còn học sinh chậm tiến. - Số học sinh yếu 7 học sinh. Cuối năm không còn học sinh yếu. - Hạnh kiểm khá đầu năm 6 học sinh đến cuối năm còn 4 học sinh. - Các em có nhiều tiến bộ nhất là Trà Giang, Thu Hương, Quyết Hải. + Chuyển biến về mặt học tập, có ý thức Trà Giang, Thu Hương, Quyết Hải đều là học sinh Tiên Tiến và hạnh kiểm Tốt.
  7. + Đã chăm học và rèn chữ đều là Minh Trí và Minh Tùng. - Từ một tập thể khá về các mặt, lớp tôi đã tiến tới lớp Tiên Tiến, lớp Vở Sạch Chữ Đẹp; các mặt hoạt động đều tham gia tích cực, đạt Chi đội mạnh. - Nhận xét của cha mẹ học sinh: Các em có ngoan hơn (đặc biệt là Hồng Phúc) ít quậy phá (Hoàng Giang), chăm học hơn, biết nghe lời, không cãi láơ với cha mẹ (Ngọc Bích, Đăng Trường). - Tập thể học sinh đoàn kết, giúp đỡ nhau, không còn hiện tượng đánh nhau hoặc chía bè phái. - Nhận xét của các thầy cô giáo dạy bộ môn phụ và các cô giáo trong khối: Các em ngoan hơn so với đầu năm, có nhiều tiến bộ trong học tập, có ý thức kỷ luật trong giờ ngoại khoá.
  8. IV/ Bài học kinh nghiệm - Học sinh được quan tâm giáo dục về nhiều mặt sẽ có sự chuyển biến rõ rệt. - Việc giáo dục thông tin 2 chiều có tác dụng tốt, giữa giáo viện và phụ huynh có sự hiểu nhau và thông cảm. - Được sự ủng hộ của Hội CMHS và CMHS rất tận tình. - Được BGH nhà trường, Đội, đồng nghiệp đồng tình ủng hộ và giúp đỡ. Qua một năm thực hiện và áp dụng những biện pháp này tôi nhận thấy còn một số thiếu sót cần phải được khắc phục trong năm học sau: - Phát huy vai trò tích cực của tập thể lớp, vai trò của các đội viên trong công tác giáo dục học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. - Phát huy hơn nữa vai trò của Chi Hội CMHS để nhằm giáo dục học sinh đạt kết quả cao hơn nữa. Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình giáo dục học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt Sáng kiến kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp . Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời gian để đọc bài viết này của tôi. Hà Nội ngày 30 - 04 - 2001 Người viết Bùi Thị Yến Giáo viên lớp 5C-Trường Tiểu học Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội