Tìm hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới: Hỏi đáp về những vấn đề chung

pdf 21 trang Chiến Đoàn 14/01/2025 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới: Hỏi đáp về những vấn đề chung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_chuong_trinh_giao_duc_pho_thong_moi_hoi_dap_ve_nhun.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới: Hỏi đáp về những vấn đề chung

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO DỰ ÁN HỖ TRỢ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TÌM HIỂU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI HHỎỎII ĐĐÁÁPP VVỀỀ NNHHỮỮNNGG VVẤẤNN ĐĐỀỀ CCHHUUNNGG
  2. Hỏi đáp về những vấn đề chung Vì sao phải đổi mới Hiện nay, đất nước và nhân loại đã bước sang chương trình giáo một giai đoạn phát triển mới, đặt ra những yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực, phát triển dục phổ thông? con người. Nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, nhưng những thành tựu về kinh tế của nước ta chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, môi trường văn hóa còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa hội đủ các nhân tố để phát triển nhanh và bền vững. ?Thêm vào đó, thế giới đã liên tục chứng kiến những biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư nối tiếp nhau ra đời, kinh tế tri thức phát triển mạnh đem lại cơ hội phát triển vượt bậc, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Mặt khác, như ñ g biê ń đô ỉ vê ̀ khi ́ hâ ụ , ti ǹ h tra ṇ g ca ṇ kiê ṭ ta ì nguyên, ô nhiê m̃ môi trươ ǹ g, mâ t́ cân bă ǹ g sinh tha í và như ñ g biê ń đô ṇ g về chi ń h tri ,̣ xã hội cũng đặt ra những thách thức có tính toàn cầu. Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã không ngừng đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bi ̣ cho ca ć thê ́ hê ̣ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lư c̣ thi ć h ư ń g cao trươ ć mo ị biê ń đô ṇ g cu ả thiên nhiên và xã hội. Đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết và xu thế mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/1/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Ngày 27/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã tổ chức xây dựng và ban hành Chương trình GDPT mới để nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng những đòi hỏi của thực tế và bắt kịp xu thế chung của nhân loại. 2
  3. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới kế thừa những gì ở chương trình hiện hành Về mục tiêu giáo dục, Chương trình GDPT mới tiếp tục được xây dựng trên quan điểm coi mục tiêu GDPT là giáo dục con người toàn diện, giúp học sinh phát triển hài hòa về đức, trí, thể, mĩ. Về phương châm giáo dục, Chương trình GDPT mới kế thừa các nguyên lí giáo dục nền tảng như “Học đi đôi với hành”, “Lí luận gắn liền với thực tiễn”, “Giáo ?dục ở nhà trường kết hợp với giáo dục ở gia đình và xã hội”. Về nội dung giáo dục, Chương trình GDPT mới tiếp tục tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa dân tộc, nhân loại, bảo đảm phù hợp với đặc điểm con người và văn hóa Việt Nam. Bên cạnh một số kiến thức được cập nhật để phù hợp với những thành tựu mới của khoa học - công nghệ và định hướng mới của chương trình, kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình GDPT mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa từ Chương trình GDPT hiện hành, nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách hiệu quả hơn. Những kiến thức nặng tính kinh viện không thích hợp với học sinh phổ thông đã được cắt bỏ. 3
  4. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới kế thừa những gì ở chương trình hiện hành ? - Về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số môn học và hoạt động giáo dục (HĐGD) mới hoặc mang tên mới là: Tin học và Công nghệ, Ngoại ngữ, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Lịch sử và Địa lí, Khoa học tự nhiên ở cấp THCS;Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp THPT; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở các cấp THCS, THPT. Việc đổi tên môn Kĩ thuật ở cấp tiểu học thành Tin học và Công nghệ là do chương trình mới bổ sung phần Tin học và tổ chức lại nội dung phần Kĩ thuật. Tuy nhiên, trong chương trình hiện hành, môn Tin học đã được dạy từ lớp 3 như một môn học tự chọn. Ngoại ngữ tuy là môn học mới ở cấp tiểu học nhưng là một môn học từ lâu đã được dạy ở các cấp học khác; thậm chí đã được nhiều học sinh làm quen từ cấp học mầm non. Ở cấp THCS, môn Khoa học tự nhiên được xây dựng trên cơ sở tích hợp kiến thức của các ngành vật lí, hóa học, sinh học và khoa học Trái Đất; môn Lịch sử và Địa líđược xây dựng trên cơ sở tích hợp kiến thức của các ngành lịch sử, địa lí. Học sinh đã học môn Khoa học, môn Lịch sử và Địa lí ở cấp tiểu học, không gặp khó khăn trong việc tiếp tục học các môn này. Chương trình hai môn học được thiết kế theo các mạch nội dung phù hợp với chuyên môn của giáo viên dạy đơn môn hiện nay nên cũng không gây khó khăn cho giáo viên trong thực hiện. Hoạt động trải nghiệm hoặc Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cả ba cấp học cũng là một nội dung quen thuộc vì được xây dựng trên cơ sở các hoạt động giáo dục tập thể như chào cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt Sao Nhi đồng, Đội TNTP Hồ Chí Minh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam và các hoạt động tham quan, lao động, hướng nghiệp, thiện nguyện, phục vụ cộng đồng, trong chương trìnhhiện hành. - Về thời lượng dạy học, tuy chương trình mới có thực hiện giảm tải so với chương trình hiện hành nhưng những tương quan về thời lượng dạy học giữa các môn học không có sự xáo trộn. - Về phương pháp giáo dục, phương pháp giáo dục mới phát huy tính tích cực của học sinh, khắc phục nhược điểm của phương pháp truyền thụ một chiều. Từ nhiều năm nay, Bộ GDĐT đã phổ biến và chỉ đạo áp dụng nhiều phương pháp giáo dục mới (như mô hình trường học mới, phương pháp bàn tay nặn bột, giáo dục STEM, ); do đó, hầu hết giáo viên các cấp học đã được làm quen, nhiều giáo viên đã vận dụng thành thạo các phương pháp giáo dục mới. 4
  5. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới có những gì khác chương trình hiện hành Để thực hiện mục tiêu đổi mới, Chương trình GDPT mới vừa phải kế thừa và phát triển những ưu điểm của Chương trình GDPT hiện hành, vừa phải khắc phục những hạn chế, bất cập của chương trình này. Những điểm cần khắc phục cũng chính là những khác biệt chủ yếu của chương trình mới so với chương trình hiện hành. Chương trình GDPT hiện hành được xây dựng theo định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn. Theo mô hình này, kiến thức vừa là “chất liệu”, “đầu vào” vừa là “kết quả”, “đầu ra” của quá trình giáo dục. Vì vậy, học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đ?ời sống rất hạn chế. Chương trình GDPT mới được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kì vọng. Theo cách tiếp cận này, kiến thức được dạy học không nhằm mục đích tự thân. Nói cách khác, giáo dục không phải để truyền thụ kiến thức mà nhằm giúp học sinh hoàn thành các công việc, giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống nhờ vận dụng hiệu quả và sáng tạo những kiến thức đã học. Quan điểm này được thể hiện nhất quán ở nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. 5
  6. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới có những gì khác chương trình hiện hành? Chương trình Chương trình GDPT mới phân biệt rõ hai giai đoạn: giai đoạn giáo GDPT hiện hành dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng có nội dung nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Trong giai đoạn giáo dục cơ giáo dục gần bản, thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 29, Nghị quyết 88 và Quyết như đồng nhất định 404, chương trình thực hiện lồng ghép những nội dung liên cho tất cả học quan với nhau của một số môn học trong chương trình hiện hành sinh; việc định để tạo thành môn học tích hợp, thực hiện tinh giản, tránh chồng hướng nghề chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lí số môn học; đồng thời thiết nghiệp cho học kế một số môn học (Tin học và Công nghệ, Tin học, Công nghệ, sinh, ngay cả ở Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải cấp THPT chưa nghiệm, hướng nghiệp) theo các chủ đề, tạo điều kiện cho học được xác định rõ sinh lựa chọn những chủ đề phù hợp với sở thích và năng lực của ràng. bản thân. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên đề học tập phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của mình. Trong Chương trình GDPT hiện hành, Chương trình GDPT mới chú ý hơn đến tính sự kết nối giữa chương trình các cấp kết nối giữa chương trình của các lớp học, học trong một môn học và giữa cấp học trong từng môn học và giữa chương trình các môn học chưa chặt chương trình của các môn học trong từng chẽ; một số nội dung giáo dục bị trùng lớp học, cấp học. Việc xây dựng Chương lặp, chồng chéo hoặc chưa thật sự cần trình tổng thể, lần đầu tiên được thực hiện thiết đối với học sinh phổ thông. tại Việt Nam, đặt cơ sở cho sự kết nối này. Chương trình GDPT Chương trình GDPT mới bảo đảm định hướng thống nhất và hiện hành thiếu những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh tính mở nên hạn toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm chế khả năng chủ cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung động và sáng tạo một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù của địa phương và hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của nhà trường cũng cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà như của tác giả SGK trường với gia đình, chính quyền và xã hội. và giáo viên. 6
  7. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới tiếp thu kinh nghiệm quốc tế như thế nào Về mục tiêu giáo dục Mục tiêu giáo dục của Chương trình GDPT mớicụ thể hóa mục tiêu giáo dục được quy định tại Luật Giáo dục và mục tiêu đổi mới giáo dục nêu trong các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời tham khảo mục tiêu giáo dụ?c trong Chương trình GDPT của nhiều quốc gia và định hướng giáo dục của các tổ chức quốc tế lớn, trong đó có Tuyên bố của UNESCO về “bốn trụ cột của giáo dục” (Pillars of Learning) – Học để biết, Học để làm, Học để chung sống, Học để tự khẳng định mình. Các ý tưởng cơ bản trong tuyên bố này được coi là mục tiêu giáo dục chung mà nhân loại hướng đến và đã được thể hiện đầy đủ trong phần mục tiêu giáo dục của Chương trình GDPT mới. Về mô hình giáo dục Mô hình giáo dục truyền thống, phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới trong hàng nghìn năm qua là “truyền thụ kiến thức”. Cách tiếp cận này lấy kiến thức làm mục tiêu tự thân của giáo dục, biến người học thành đối tượng tiếp nhận thụ động, không còn phù hợp với thời đại mới. Vì vậy, nhiều tổ chức quốc tế lớn như EU, OECD, WEF và nhiều quốc gia phát triển như Anh, Ausstralia, Mỹ, Phần Lan, Singapore, đã nghiên cứu và xây dựng khung các năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kì ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả, làm cơ sở để hoạch định chính sách và cách tiếp cận đối với giáo dục, trong đó có xây dựng chương trình GDPT. Chương trình GDPT của nhiều quốc gia thể hiện rõ nét và có hệ thống những năng lực năng lực cơ bản, thiết yếu đó với những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, chương trình của Australia có 7 năng lực chung (general capabilities): 1) giao tiếp; 2) tính toán; 3) ICT; 4) tư duy phản biện và sáng tạo; 5) cá nhân và xã hội; 6) thấu hiểu về đạo đức; 7) hiểu biết liên văn hóa. Chương trình của Phần Lan có 7 năng lực chung (transversal compe - tencies): 1) năng lực tư duy và học cách học (thinking and learning skills); 2) năng lực văn hóa, tương tác và biểu hiện bản thân; 3) năng lực chăm sóc bản thân và quản trị đời sống hằng ngày; 4) năng lực giao tiếp đa phương thức; 5) năng lực ICT; 6) năng lực làm việc và lập nghiệp, kinh doanh; 7) năng lực tham gia và xây dựng một tương lai bền vững (bảo vệ môi trường, tuân thủ luật lệ, đàm phán và giải quyết xung đột, hiểu tầm quan trọng của các lựa chọn, ). 7
  8. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới tiếp thu Về hệ thống kinh nghiệm quốc tế như thế nào? các cấp học và các giai đoạn giáo dục Điểm khác biệt đáng kể so với chương trình hiện hành và cũng là kết quả tiếp thu kinh nghiệm quốc tế là trong Chương trình GDPT mới, quá trình 12 năm học được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản bao gồm cấp tiểu học (5 năm), cấp ?THCS (4 năm) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, tương ứng với cấp THPT (3 năm). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, tất cả học sinh đều học những nội dung giáo dục về cơ bản giống nhau. Ở giai đoạn giáo dục sau THCS, học sinh được phân luồng và được lựa chọn môn học theo sở thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp. Về kế hoạch giáo dục và nội dung giáo dục Ngoài việc kế thừa nhiều điểm còn phù hợp trong kế hoạch giáo dục và nội dung giáo dục của chương trình hiện hành, Chương trình GDPT mới đã tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là thông qua các tài liệu về giáo dục của OECD, EU, WEF và CT GDPT của nhiều nước như Anh, Australia, Hàn Quốc, Mỹ, Phần Lan, để xây dựng kế hoạch giáo dục và nội dung giáo dục. Việc thiết kế một số môn tích hợp mới như Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lí ở cấp THCS; phân hóa bằng lựa chọn các môn học thuộc ba nhóm môn bên cạnh một số môn học bắt buộc, có tính chất công cụ như Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ ở cấp THPT; bổ sung một số môn học mới vào chương trình như Giáo dục kinh tế và pháp luật, Nghệ thuật ở cấp THPT và phát triển Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong chương trình hiện hành thành Hoạt động trải nghiệm (hoặc Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp) đều có dấu ấn của xu thế quốc tế. 8
  9. Hỏi đáp về những vấn đề chung Về phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục Các định hướng về phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục trong Chương trình GDPT mới là kết quả của những ? đổi mới, thử nghiệm về phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục được tiến hành trong nhiều năm qua ở các trường phổ thông cả ba cấp trên cả nước, đồng thời có tham khảo lí luận và kinh nghiệm quốc tế. Các lí thuyết tâm lí học và giáo dục học có ảnh hưởng sâu rộng đến việc xây dựng chương trình và tổ chức hoạt động giáo dục ở nhiều nước tiên tiến như Lí thuyết kiến tạo của Jean Piaget, Lev Vygosky, John Dewey, ; Lí thuyết về “vùng phát triển gần nhất” của Lev Vygotsky; Lí thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner cũng như bài học kinh nghiệm từ chương trình GDPT và SGK của các nước và từ chia sẻ của các chuyên gia quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục nói chung trong Chương trình GDPT mới. Cùng với những bài học rút ra từ những kì khảo sát quốc tế nhằm đánh giá năng lực học sinh như PISA, TIMSS và từ thực tế thử nghiệm đổi mới đánh giá tại các nhà trường phổ thông của nước ta trong những năm qua, các lí thuyết và kinh nghiệm quốc tế này cũng là cơ sở tham khảo quan trọng để đổi mới mục tiêu và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, cấu trúc văn bản Chương trình GDPT mới, quy trình và cách thức tổ chức xây dựng và thử nghiệm chương trình, chủ trương “một chương trình nhiều SGK” và đa dạng hóa tài liệu giáo dục, cũng là kết quả học tập kinh nghiệm xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình GDPT của các nước có nền giáo dục phát triển. 9
  10. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình mới giảm tải so với chương trình hiện hành như thế nào ? 1. Giảm số môn học, hoạt động giáo dục Nhờ thực hiện dạy học tích hợp và sắp xếp lại kế hoạch giáo dục ở các cấp học, Chương trình GDPT mới giảm được số môn học, hoạt động giáo dục (sau đây gọi chung là môn học) so với chương trình hiện hành:
  11. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình mới giảm tải so với chương trình 3. Giảm hiện hành như thế nào kiến thức kinh viện - Chương trình GDPT hiện hành 2. Giảm số tiết học thiên về trang bị kiến thức cho - Ở tiểu học, học sinh học 2.838 giờ. Theo chương học sinh, do đó chứa đựng trình hiện hành, học sinh học 2.353 giờ. Chương nhiều kiến thức kinh viện, trình mới là chương trình học 2 buổi/ngày (9 không phù hợp và không thiết buổi/tuần), tính trung bình học sinh học 1,8 thực đối với học sinh. giờ/lớp/buổi học; có điều kiện tổ chức các hoạt - Chương trình GDPT mới lấy động vui chơi, giải trí nhiều hơn. Chương trình việc phát triển phẩm chất và hiện hành là chương trình học 1 buổi/ngày (5 năng lực thực tiễn của học sinh buổi/tuần), tính trung bình học sinh học 2,7 làm mục tiêu, cho nên xuất phát giờ/lớp/buổi học. từ yêu cầu cần đạt về phẩm chất - Ở THCS, học sinh học 3.070 giờ. Theo chương và năng lực ở từng giai đoạn trình hiện hành, học sinh học 3.124 giờ. học tập để lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp, giảm bớt - Ở THPT, học sinh học 2.284 giờ. Theo chương đáng kể kiến thức kinh viện, làm trình hiện hành, học sinh Ban cơ bản học 2.546 cho bài học nhẹ nhàng hơn. giờ; học sinh Ban A, Ban C học 2.599 giờ. 4. Tăng cường 5. Thực hiện dạy học phương pháp dạy phân hoá, tự chọn học mới Chương trình GDPT mới là một chương Chương trình GDPT mới triệt để thực hiện trình mở, tạo điều kiện cho học sinh phương pháp dạy học tích cực: học sinh được lựa chọn nội dung học tập và môn được hoạt động để tự tìm tòi kiến thức, học phù hợp với nguyện vọng, sở trường phát triển kĩ năng và vận dụng vào đời của mình. Được chọn những nội dung sống; thầy cô không thiên về truyền thụ học tập (ở cả ba cấp học) và môn học (ở mà đóng vai trò hướng dẫn hoạt động cho cấp THPT) phù hợp với nguyện vọng, sở học sinh. Trong thực hiện chương trình, trường, học sinh sẽ không bị ức chế, dẫn thầy cô được quyền chủ động phân bổ tới quá tải, mà ngược lại, sẽ học tập hào thời gian dạy học và lựa chọn phương hứng, hiệu quả hơn. pháp dạy học phù hợp với mỗi nội dung, 11
  12. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình mới giảm tải so với chương trình hiện hành như thế nào 6. Đổi mới đánh giá kết quả giáo dục Chương trình GDPT mới xác định mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Từ phương thức đánh giá đến nội dung đánh giá, hình thức công bố kết quả đánh giá sẽ có những cải tiến nhằm bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và Các giải pháp nói trên đã góp phần quan xã hội. trọng giảm tải chương trình. Tuy nhiên, để khắc phục được triệt để nguyên nhân gây quá tải, cơ quan quản lí nhà nước ở địa phương, cơ sở giáo dục và giáo viên cần phối hợp chặt chẽ để quản lí việc dạy thêm học thêm; các bậc cha mẹ học sinh cũng cần tính toán để giúp con xây dựng kế hoạch học tập, vui chơi, nghỉ ngơi hợp lí, tránh tạo thêm áp lực cho con ngoài giờ học ở trường. 12
  13. Hỏi đáp về những vấn đề chung 13
  14. CHhỏiủ đ tárpư vơền ngh dữạnyg hvấọnc đtíềc chh huợngp trong các văn bản chỉ đạo, văn bản quy phạm pháp luật về đổi mới chương trình, SGK GDPT Các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội và Chính phủ ban hành đều yêu cầu thực hiện dạy học tích hợp trong đổi mới GDPT. NQ 29 chủ trương: “Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn.”. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết 88 quy định: “Đổi mới nội dung giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên. Ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở, thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học trong chương trình hiện hành để tạo thành môn học tích hợp; thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lí số môn học. Ở cấp trung học phổ Vì sao thông, yêu cầu học sinh học một số môn học bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học và chuyên đề học tập”. Quyết định 404 phải dạy học cũng tái khẳng định các yêu cầu nói trên. Đây là những yêu cầu tích hợp? cần được quán triệt trong CT GDPT mới. Trong tự nhiên và xã hội, mọi sự vật và hiện tượng là một thể thống nhất. Việc chia ra các lĩnh vực khoa học (hay các môn học) là để nghiên cứu sâu sự vật và hiện tượng ở từng phương diện nhất định. Tuy nhiên, khi giải quyết một vấn đề của thực tiễn thì không chỉ cần tới hiểu biết về một phương diện nào đó mà cần kiến thức tổng hợp thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Mặt khác, kho tàng kiến thức của nhân loại càng ngày càng tăng trong khi thời gian học tập ở nhà trường phổ thông thì có hạn, giáo dục phổ thông cần có giải pháp thích hợp để giải quyết mâu thuẫn này. Chính vì vậy, từ hàng chục năm nay, các nước có nền giáo dục tiên tiến đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có dạy học tích hợp, mà mức cao nhất là xây dựng các môn học tích hợp. Giải pháp này phù hợp với yêu cầu phát triển năng lực của người học, bởi vì năng lực là kết quả huy động tổng hợp các nguồn lực để thực hiện thành công các hoạt động thực tiễn, dạy học tích hợp giúp học sinh rút ngắn quá trình tổng hợp này, đồng thời góp phần “giảm tải” chương trình. Tiến trình dạy học “tích hợp cao ở lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên” cũng phù hợp với quy luật nhận thức của con người là đi từ tổng thể đến chi tiết, từ những vấn đề khái quát đến những vấn đề chuyên sâu. Thực tiễn thử nghiệm dạy học tích hợp ở Việt Nam nhiều năm qua cho thấy việc xây dựng chương trình môn học tích hợp giúp học sinh có cơ hội vận dụng kiến thức, kĩ năng của nhiều lĩnh vực chuyên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong học tập và đời sống, qua đó giúp học sinh phát triển được những phẩm chất và năng lực mà chương trình GDPT kì vọng. Ngoài ra, nó còn giúp tránh được sự trùng lặp kiến thức nếu dạy ở nhiều môn học, nhờ đó phù hợp với thời gian học của học sinhtrong nhà trường, góp phần giảm tải so với chương trình hiện hành. Trong thực tiễn dạy học lâu nay, nhiều giáo viên đã vận dụng cách dạy học tích hợp. Tuy nhiên, nếu quan điểm tích hợp được quán triệt ngay từ khâu thiết kế chương trình và biên soạn SGK thì giáo viên sẽ vận dụng thuận lợi hơn và việc dạy học sẽ hiệu quả hơn so với cách làm tùy thuộc nhiều vào sự vận dụng của từng cá nhân giáo viên. 14
  15. Hỏi đáp về những vấn đề chung Kinh nghiệm quốc tế về dạy học tích hợp Dạy học tích hợp đã và đang được thực hiện ở nhiều quốc gia có nền giáo dục phát triển hàng đầu của thế giới; mức độ tích hợp khá đa dạng. Số nước có môn Khoa học tự nhiên (Science) thay cho 3 môn học riêng rẽ là Vật lí, Hoá học và Sinh học ở cấp THCS chiếm tỉ lệ cao trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền giáo dục phát triển, như: Anh, Australia, Hàn Quốc, Hoa Kì, New Zealand, Nhật Bản, Singapore, Thụy Sỹ, Xứ Wales, Bản thân tính chất phổ biến của môn học tích hợp này và việc môn học tích hợp tiếp tục xuất hiện trong những chương trình GDPT mới nhất của nhiều nước (Anh, Australia, Hàn Quốc, Singapore, ) cho thấy việc thiết kế môn học tích hợp Khoa học tự nhiên ở cấp THCS trong Chương trình GDPT mới của Việt Nam là một lựa chọn phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Việc tích hợp Lịch sử và Địa lí thành một môn học (Lịch sử và Địa lí hoặc Khoa học xã hội, Nghiên cứu xã hội) không phổ biến như môn Khoa học tự nhiên, nhưng cũng đã thực hiện ở nhiều quốc gia có nền giáo dục phát triển như Australia, Canada, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản,Pháp, Singapore, . Tuy nhiên, mỗi nền giáo dục có cách tiếp cận riêng. Chẳng hạn, trong chương trình của bang California (Hoa Kì) có môn học Lịch sử - Khoa học xã hội (History-Social Science), thiết kế xuyên suốt từ Mẫu giáo (Kindergarten) đến lớp 12, trục xuyên suốt là lịch sử (thời gian); trong môn học này, những kiến thức cốt lõi của Địa lí không được thể hiện rõ, ngoại trừ một số kiến thức về bản đồ, về bối cảnh địa lí diễn ra các sự kiện lịch sử. Trong chương trình của bang Massachusetts (Hoa Kì) cũng có môn Lịch sử - Khoa học xã hội. Chương trình này cũng xuyên suốt từ trước Mẫu giáo (Pre-Kindergarten, Kindergarten) đến lớp 12. Những kiến thức cơ bản và kĩ năng về khoa học xã hội, bao gồm lịch sử, địa lí, giáo dục công dân, kinh tế đại cương, kinh tế Hoa Kì được tích hợp dựa trên trục chính là lịch sử. 15
  16. Hỏi đáp về những vấn đề chung Định hướng dạy học tích hợp trong Chương trình GDPT mới Chương trình GDPT mới thực hiện dạy học tích hợp theo ba định hướng sau: a) Tích hợp nội môn: tích hợp giữa các mảng kiến thức khác nhau trong cùng một môn học, tích hợp giữa yêu cầu trang bị kiến thức với việc rèn luyện kĩ năng. b) Tích hợp liên môn: tích hợp kiến thức của các môn học, khoa học có liên quan với nhau; ở mức thấp là liên hệ kiến thức được dạy với những kiến thức có liên quan trong dạy học; ở mức cao là xây dựng các môn học tích hợp. c) Tích hợp xuyên môn: tích hợp một số chủ đề quan trọng vào nội dung chương trình nhiều môn học, ví dụ, các chủ đề về chủ quyền quốc gia, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, giáo dục tài chính, Trong việc triển khai ba định hướng trên, điều được dư luận quan tâm nhiều là xây dựng các môn học tích hợp. Ở cấp tiểu học, các môn học tích hợp như Tự nhiên và Xã hội (ở lớp 1, lớp 2, lớp 3), Khoa học, Lịch sử và Địa lí (ở lớp 4, lớp 5) hình thành từ Chương trình GDPT hiện hành đã trở nên quen thuộc. Giáo viên tiểu học vốn được đào tạo để dạy nhiều môn nên không gặp khó khăn trong việc thực hiện các môn học này. Chương trình GDPT mới cũng tiếp tục duy trì môn Ngữ văn, một môn học tích hợp hình thành từ Chương trình GDPT hiện hành. Môn học này tích hợp kiến thức của hai ngành ngôn ngữ học và văn học, được dạy ở cả ba cấp học. Do được đào tạo ở trường sư phạm để dạy cả ngôn ngữ học và văn học nên giáo viên cũng không gặp khó khăn trong việc thực hiện môn học này. Thậm chí, việc dạy tích hợp còn thuận lợi hơn là tách riêng hai môn Văn học và Tiếng Việt như trong Chương trình cải cách giáo dục năm 1979. Trong Chương trình GDPT mới, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp THCS, THPT cũng là những hoạt động giáo dục tích hợp. Các hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học khác nhau để thực hiện những nhiệm vụ được giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội phù hợp với lứa tuổi; thông qua đó, chuyển hoá những kinh nghiệm đã trải qua thành tri thức mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai. Hai môn học dành được sự quan tâm nhiều nhất là Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lí ở cấp THCS. Quyết định 404 của Thủ tướng Chính phủ đã lưu ý: “Ở các lớp học, cấp học dưới,thực hiện lồng ghép, kết hợp những nội dung liên quan với nhau ở mức độ hợp lí để tạo thành các môn học tích hợp.” 16
  17. Hỏi đáp về những vấn đề chung Những người biên soạn Chương trình GDPT mới đã lựa chọn phương án tích hợp phù hợp với mỗi môn học để phát huy hiệu quả của dạy học tích hợp, đồng thời bảo đảm kiến thức cốt lõi của mỗi ngành khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế trong bước đầu thực hiện dạy học tích hợp ở nước ta. Chương trìnhmôn Khoa học tự nhiên được thiết kế thành 4 mạch chủ đề chung: Chất và sự biến đổi của chất, Vật sống, Năng lượng và sự biến đổi, Trái đất và bầu trời. Mỗi chủ đề nói trên vận dụng kiến thức của một ngành khoa học, tạo điều kiện cho giáo viên vốn được đào tạo đơn môn ở trường sư phạm có thể thực hiện chương trình. Bên cạnh đó, chương trìn - hcòn có một số chủ đề đòi hỏi tính tích hợp cao như biến đổi khí hậu, giáo dục sức khoẻ, giáo dục STEM, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, Chương trình môn Lịch sử và Địa lí gồm hai phân môn Lịch sử, Địa lí; nội dung của mỗi phân môn vừa bảo đảm tính độc lập tương đối vừa góp phần soi sáng, hỗ trợ cho nhau. Bên cạnh đó,chương trình còn tạo cơ hội chohọc sinh tìm hiểu một số chủ đề đòi hỏi tính tích hợp cao như:Các cuộc đại phát kiến địa lí, Đô thị - Lịch sử và hiện tại, Văn minh châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông. Phương thức và mức độ tích hợp như trên phù hợp với trình độ đào tạo, năng lực dạy học của giáo viên và khả năng tiếp nhận, vận dụng kiến thức của học sinh;đồng thời, cũng bảo đảm tính hệ thống của các kiến thức cốt lõi. 17
  18. Hỏi đáp về những vấn đề chung Tổ chức dạy các môn học Việc dạy học tích hợp ở cấp tiểu học và dạy học môn Ngữ văn ở ba cấp học được thực hiện như trong chương tích hợp trình hiện hành. như thế nào? Các Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp của mỗi lớp do giáo viên chủ nhiệm phụ trách, thực hiện theo kế hoạch của nhà trường. Tùy từng hoạt động cụ thể, giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên môn học, cán bộ tư vấn tâm lí học đường, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, cán bộ phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, cha mẹ học sinh để tổ chức các hoạt động này. Giáo viên và nhà trường cũng cần báo cáo chính quyền địa phương, phối hợp với các tổ chức, cá nhân trong xã hội để hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động lao động công ích, thiện nguyện. Về các môn Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lí ở cấp THCS, với phương thức và mức độ tích hợp của chương trình các môn học này, các tổ chuyên môn phân công giáo viên dạy mạch chủ đề phù hợp với chuyên môn của mình trên cơ sở bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên trong việc dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đây là giải pháp mà các nước phát triển như Anh, Hoa Kì vẫn thực hiện từ trước đến nay. Các trường sư phạm đã có kế hoạch xây dựng chương trình đào tạo giáo viên dạy học các môn Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lí và chương trình bồi dưỡng giáo viên đơn môn để dạy các môn học này. Những giáo viên có điều kiện và nguyện vọng có thể theo học chương trình bồi dưỡng ở trường sư phạm, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để tiến tới đảm nhiệm được việc dạy toàn bộ môn học. Chương trình bồi dưỡng được tổ chức thực hiện theo hình thức tích lũy tín chỉ nên giáo viên có thể sắp xếp thời gian hợp lí để theo học và hoàn thành chương trình. 18
  19. Hỏi đáp về những vấn đề chung Nội dung giáo dục của địa phương và kế hoạch giáo dục của nhà trường là gì Ở các nước phát triển, chương trình GDPT được phân chia thành 3 cấp độ: chương trình quốc gia, chương trình địa phương, chương trình nhà trường. Việc phân chia này thể hiện tính mở của chương trình quốc gia, tăng quyền và trách nhiệm tự chủ của địa phương và nhà trường.Ở nước ta, Luật Giáo dục hiện hành chỉ quy định một cấp chương trình do Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành “để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy và học tập ở các cơ sở GDPT”. Tuy nhiên, Nghị quyết số 29 của Trung ương, Nghị quyết số 88 của Quốc hội, Quyết định số 404 của Thủ tướng Chính phủ đều yêu cầu xây dựng chương trình mở, phù hợp với xu thế quốc tế và đáp ứng yêu cầu của bản thân mô hình chương trình phát triển năng lực. Căn cứ quy định của Nghị quyết số 88, Chương trình GDPT mới quy định: “Nội dung giáo dục của địa phương là những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hóa, lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp, của địa phương bổ sung cho nội dung giáo dục bắt buộc chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để góp phần giải quyết những vấn đề của quê hương [ ] Căn cứ chương trình giáo dục phổ thông, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, thẩm định, chỉnh sửa tài liệu về nội dung giáo dục của địa phương; chỉ đạo việc tổ chức biên soạn, thẩm định tài liệu về nội dung giáo dục của địa phương theo hướng dẫn của Bộ GDĐT và báo cáo để Bộ GDĐTphê duyệt.”. Ở cấp tiểu học, nội dung giáo dục của địa phương được tích hợp với Hoạt động trải nghiệm. Ở cấp THCS và cấp THPT, nội dung giáo dục của địa phương có thời lượng 35 tiết/ năm học, tổng thời lượng trong cả 7 năm học là 245 tiết. 19
  20. Hỏi đáp về những vấn đề chung Thực hiện chương trình giáo dục địa phương như thế nào? Căn cứ nhu cầu thực tế, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp. Ví dụ, Hà Nội có thể xây dựng các bài học về văn hóa người Tràng An, văn hóa và pháp luật về giao thông, trật tự vệ sinh đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh có thể xây dựng các bài học về thành phố thông minh, văn hóa của công dân thành phố thông minh, Các tỉnh Tây Nguyên có thể xây dựng các bài học về văn hóa các dân tộc thiểu số, kinh tế cây công nghiệp, Các tỉnh Việt Bắc có thể xây dựng các bài học về văn hóa các dân tộc thiểu số, bảo vệ chủ quyền quốc gia và xây dựng biên giới hữu nghị, an toàn v.v Về quyền chủ động của địa phương và nhà trường, Chương trình GDPT mới quy định: “Chương trìnhbảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.” Lần đầu tiên, chương trình GDPT của nước ta chỉ quy định thời lượng dạy học mỗi môn học trong năm học, không quy định thời lượng đến từng tuần, để các trường chủ động xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp. Đối với cấp tiểu học là cấp học thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, Bộ GDĐT sẽ có văn bản hướng dẫn đối với những trường chưa có điều kiện dạy học 2 buổi/ngày. Đối với cấp THPT là cấp học có nhiều môn học lựa chọn, chương trình quy định: “Các trường có thể xây dựng các tổ hợp môn học từ 3 nhóm môn học và chuyên đề học tập nói trên để vừa đáp ứng nhu cầu của người học vừa bảo đảm phù hợp với điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường.” Như vậy, có thể hiểu kế hoạch giáo dục của nhà trường là sự cụ thể hóa tiến trình thực hiện Chương trình GDPT (bao gồm nội dung giáo dục của địa phương) phù hợp với điều kiện cụ thể về thời gian, đặc điểm của người học, nhân lực, vật lực, của nhà trường. Kế hoạch giáo dục của nhà trường được xây dựng hằng năm dựa trên kế hoạch giáo dục chung và các hướng dẫn trong Chương trình GDPT. 20
  21. Hỏi đáp về những vấn đề chung Chương trình GDPT mới quy định: Mục tiêu dạy học - Cấp tiểu học “thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học. Cơ sở giáo dục tiểu học chưa đủ điều kiện tổ 2 buổi/ngày chức dạy học 2 buổi/ngày thực hiện kế hoạch giáo dục theo hướng dẫn của Bộ GD ĐT”; ở cấp tiểu học - Cấp THCS và THPT “mỗi ngày học 1 buổi, mỗi buổi không bố trí là gì? quá 5 tiết học”; khuyến khích các trường đủ điều kiện thực hiện dạy học 2 buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ GDĐT. Mục tiêu của hoạt động dạy học 2 buổi/ngày là nhằm tăng cường giáo dục toàn diện, đặc biệt là tăng cường các hoạt động thực hành, rèn luyện thân thể, sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh; hạn chế tình trạng dạy thêm, học thêm; đáp ứng yêu cầu quản lí và giáo dục học sinh của gia đình và xã hội; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Các địa phương và cơ sở giáo dục cần làm gì để thực hiện dạy học 2 buổi/ ngày? Ở cấp tiểu học, theo thống kê của Bộ GDĐT, Các trường đủ điều kiện dạy học 2 buổi/ngày hiện có trên 80% số học sinh trong cả nước cần có kế hoạch sử dụng thời gian ngoài đang được học 2 buổi/ngày. Nguyên nhân chương trình các môn học, HĐGD bắt buộc một số địa phương chưa tổ chức được cho học một cách hợp lí để dạy các môn học tự chọn sinh học 2 buổi/ngày là khó khăn về quỹ đất, cho học sinh có nguyện vọng học; bồi dưỡng kinh phí và điều kiện sống của người dân. Để học sinh giỏi, hướng dẫn những học sinh chưa thực hiện được quy định của chương trình đáp ứng các yêu cầu cần đạt; tăng cường các mới, bảo đảm cho con em địa phương không hoạt động thực hành, rèn luyện thân thể, sinh thiệt thòi so với học sinh những nơi khác, các hoạt văn hoá - nghệ thuật, giáo dục kĩ năng địa phương có thể chọn một trong các giải sống cho học sinh. pháp sau: Ở các cấp THCS, THPT, việc tổ chức buổi học 1. Cân đối quỹ đất, kinh phí để mỗi năm thực thứ hai cần dựa trên sự tự nguyện của học sinh hiện dứt điểm việc dạy học 2 buổi/ngày ở một và cha mẹ học sinh. Cũng như ở cấp tiểu học, lớp học theo lộ trình đổi mới chương trình, buổi học thứ hai có thể được sử dụng để dạy SGK phổ thông như quy định tại Nghị quyết các môn học tự chọn cho học sinh có nguyện 51 của Quốc hội: năm học 2020 – 2021ở lớp 1; vọng học; bồi dưỡng học sinh giỏi, hướng dẫn năm học 2020 – 2021ở lớp 2; năm học 2020 – những học sinh chưa đáp ứng các yêu cầu cần 2021ở lớp 3; năm học 2020 – 2021ở lớp 4; năm đạt; tăng cường các hoạt động thực hành, rèn học 2020 – 2021ở lớp 5. luyện thân thể, sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Trường 2. Bố trí thêm buổi học thứ 6 trong tuần để bảo hợp tổ chức chương trình liên kết quốc tế, cần đảm hoàn thành chương trình các môn học và thực hiện theo Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày HĐGD bắt buộc; không dạy các môn học tự chọn 6/6/2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu (Tiếng dân tộc thiểu số; Ngoại ngữ 1 ở lớp 1, lớp 2). tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. 21