Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tập đọc cho học sinh lớp 2
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tập đọc cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_day_tap_doc_cho_hoc.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tập đọc cho học sinh lớp 2
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2 Môn: Tiếng Việt Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Vũ Thị Hoàng Oanh Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trung Tự Chức vụ: Giáo viên cơ bản NĂM HỌC 2018 – 2019
- MỤC LỤC Nội dung Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU 2 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 2 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 3 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 3 IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM: 3 V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU: 3 VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3 B. NỘI DUNG 4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 4 II: THỰC TRẠNG DẠY TẬP ĐỌC LỚP 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 5 III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ 6 Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh qua từng giai đoạn: 6 Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học 7 Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần đọc mẫu diễn cảm: 8 Biện pháp thứ tư: Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ: 10 Biện pháp thứ năm: Rèn kỹ năng đọc ngắt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh: 11 Biện pháp thứ sáu: Sử dụng linh hoạt trò chơi học tập: 13 IV: KẾT QUẢ 15 V: MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HỌA 17 C. KẾT LUẬN 23 I. KẾT LUẬN 26 II. ĐỀ XUẤT – KHUYẾN NGHỊ: 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO 28 1/28
- A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tập đọc là một phân môn có vị trí hết sức quan trọng trong môn tiếng Việt nhất là trong giai đoạn bùng nổ thông tin hiện nay. Đọc thông viết thạo là một yêu cầu đặt ra với bất cứ học sinh tiểu học nào, ngay từ những ngày đầu tiên đến trường các em đã phải học đọc mặc dù ở giai đoạn này việc đọc của các em mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận diện kí hiệu chữ viết và giải mã bằng âm thanh song đây là một giai đoạn rất quan trọng bởi đó là giai đoạn học sinh phải học để đọc và làm nền tảng cho những giai đoạn tiếp theo, giai đoạn đọc để học. Càng về sau yêu cầu đặt ra trong việc đọc càng được nâng cao, từ việc đọc để hiểu được nội dung văn bản đến việc phát triển kĩ năng đọc diễn cảm. Dạy học tập đọc ở Tiểu học là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh, nó khẳng định sự cần thiết cho việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh.Thông qua phân môn Tập đọc mà trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn học văn và phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm trong sáng, yêu cái đẹp, cái thiện, có thái độ ứng xử tốt trong cuộc sống, yêu tiếng Việt. Bên cạnh đó theo quan điểm tích hợp các bài tập đọc còn có nhiệm vụ cung cấp ngữ liệu để hình thành và phát triển các kỹ năng khác được quy định trong chương trình. Các bài tập đọc đã trở thành nguyên liệu để các phân môn khác như: Tập làm văn – Kể chuyện – Luyện từ và câu khai thác. Chính vì vậy việc dạy phân môn Tập đọc chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó làm nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Từ nhiều năm nay Bộ giáo dục và đào tạo đã liên tục chỉ đạo đổi mới phương pháp song sự chuyển biến trong phương pháp dạy học của giáo viên đang còn chậm. Kiểu dạy học thuyết giảng đã trở thành nếp nghĩ, nếp làm của nhiều giáo viên trong nhà trường. Thực hiện dạy Tập đọc theo phương pháp mới đòi hỏi giáo viên phải từ bỏ một số thói quen không thích hợp như: Tham giảng bài, nói dài dòng. Ngại sử dụng phương tiện dạy học, bệnh nói nhiều, dàn trải. Trong thực tế giảng dạy việc tổ chức cho học sinh đọc từ, đọc câu, đọc đoạn là rất phù hợp với lớp 2, 3. Tuy nhiên do giáo viên thiếu linh hoạt trong quá trình giảng dạy, kỹ năng đọc của học sinh còn chậm. Việc luyện đọc từ khó – giảng từ của giáo viên còn nhiều bất cập, nên giờ học đã kết thúc mà có khi học sinh chưa được tìm hiểu cái 2/28
- hay, cái đẹp, cái dí dỏm trong nội dung bài tập đọc hoặc giáo viên tham nói, tham giảng từ dài dòng mà học sinh không được luyện đọc bài. Được trực tiếp giảng dạy và qua dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy tình trạng này diễn ra không phải là ít. Người giáo viên cần làm gì? Làm như thế nào? để tiết học nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy Tập đọc là điều tôi còn băn khoăn, trăn trở. Thông qua giảng dạy tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp và một phần những việc làm mà bản thân đã khám phá ra trong giảng dạy với một mong muốn tìm ra các biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 để nâng cao hiệu quả giờ tập đọc. Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong việc dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2” để nghiên cứu trong năm học này. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc, để tìm ra phương pháp giúp giáo viên rèn luyện cho học sinh lớp 2 đọc tốt hơn, qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh. Tìm hiểu yêu cầu nhiệm vụ và thực trạng dạy học của phân môn Tập đọc ở lớp 2. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Chương trình môn Tập đọc lớp 2. Phương pháp dạy Tập đọc lớp 2. IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM: Học sinh lớp 2H do tôi làm chủ nhiệm, 2E, 2G lớp đối chứng V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU: Từ tháng 9/2018 đến tháng 3 năm 2019. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu và sách tham khảo. 2. Khảo sát thực tế: - Dự giờ thăm lớp. - Khảo sát tình hình thực tế. 3. So sánh đối chiếu. 4. Phương pháp thực hành. 3/28
- B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Tiếng Việt ở Tiểu học là một môn học độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ môn Tiếng Việt ở Tiểu học là cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về Tiếng Việt để trên cơ sở đó, các em có khả năng sử dụng một cách hiệu quả Tiếng Việt trong hoạt động học tập và sinh hoạt, đồng thời giúp các em rèn luyện và phát triển tư duy. Hay nói cách khác, qua việc học Tiếng Việt, các em học sinh Tiểu học một mặt vừa lĩnh hội được kiến thức về ngôn ngữ ở mức độ sơ giản, hình thành được năng lực và biết cách tổ chức giao tiếp bằng Tiếng Việt, mặt khác giúp các em hình thành được năng lực tư duy, hình thành được nhân cách của mình. Các em biết tiếp nhận lời người khác, biết tạo ra lời nói riêng của mình vừa đúng với quy tắc ngôn ngữ, phù hợp với quy luật của tư duy, vừa phù hợp với hoàn cảnh, đáp ứng được nhu cầu giao tiếp. Đó là cơ sở để các em không chỉ học tốt môn Tiếng Việt mà còn học tốt tất cả các môn học khác trong nhà trường. Nhờ học Tiếng Việt mà tư duy của các em phát triển, các em sẽ có được những nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ hình thức sang bản chất và từ đó, những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan của các em cũng dần dần được hình thành. Hiện nay, một trong những quan điểm mới của việc biên soạn chương trình và Sách giáo khoa Tiếng Việt là quan điểm tích hợp. Vì vậy, bên cạnh những nhiệm vụ chính nêu trên, môn Tiếng Việt còn giúp các em hiểu được đời sống xã hội, hiểu được phong tục tập quán cũng như lối sống của người Việt Nam, hiểu được truyền thống của cha ông, biết tôn sư trọng đạo, biết bảo vệ môi trường sống qua những bài tập đọc, qua những bài làm văn hoặc qua những câu chữ dẫn ra như một ngữ liệu trong những bài tìm hiểu về Tiếng Việt. Tuy không phải là nhiệm vụ chính, nhưng theo tinh thần tích hợp thì điều này là không thể không chú ý cả trong biên soạn chương trình, Sách giáo khoa lẫn trong việc lựa chọn nội dung dạy học trên lớp. Tập đọc là môn học có vị trí quan trọng ở Tiểu học. Tập đọc là môn học khởi đầu (được học sớm nhất ở Tiểu học, nối tiếp với học âm, vần). Tập đọc giúp học sinh có một công cụ, một phương tiện quan trọng để học tốt các môn học khác, để chiếm lĩnh kho tàng tri thức văn hoá của nhân loại được tàng trữ trong sách vở. Tập đọc có tính chất thực hành. Khi dạy Tập đọc, giáo viên phải coi trọng việc luyện đọc cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, thời gian giảng bài của giáo viên chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tiết học. 4/28
- II. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY TẬP ĐỌC LỚP 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC Thực trạng tình hình dạy học của giáo viên và việc học của học sinh qua điều tra cụ thể là: Đầu năm học khi có ý định làm đề tài này tôi đã trao đổi với các đồng nghiệp trong khối, xin thăm lớp dự giờ các tiết tập đọc ở khối. Qua dự giờ sau các tiết dạy tôi có nhận xét sau: 1. Giáo viên: Giáo viên đã nghiên cứu phương pháp dạy tập đọc để dạy tốt song chưa đi sâu lựa chọn phương pháp cho phù hợp để tiết dạy đạt kết quả cao nhất. Giáo viên chưa có chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh tuy nhiên thời gian luyện tập và thực hành không nhiều. 2. Học sinh 2.1. Thuận lợi: Học sinh đúng độ tuổi, phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình như mua đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Cơ sở vật chất ở lớp học đầy đủ, bàn ghế đẹp, kích thước phù hợp với học sinh lớp 2. Thực tế giảng nhiều học sinh đọc rất hay mặc dù yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra đối với học sinh lớp2. Thông qua luyện đọc học sinh bước đầu đã hiểu nghĩa từ chìa khoá để hiểu nội dung bài tập đọc, có khả năng nghe và nhận xét bạn đọc. 2.2. Khó khăn: Một số ít phụ huynh còn giao khoán việc học của con em mình cho cô giáo và nhà trường. Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt của các em cũng nhiều hạn chế so với các môn Toán hay Tự nhiên xã hội, ở phân môn Tập đọc lớp 2 đa phần các em đó đọc được, song một số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy, nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n; tr/ch; s/x. Đặc biệt học sinh trường tôi đang công tác thì về kĩ thuật đọc chưa thể hiện được tình cảm, nội dung mà văn bản đề cập tới. Ví dụ như các em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng tâm, từ chìa khoá, trong những trường hợp sắm vai hay đối thoại, các em cũng lúng túng, nhiều em cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình. Đối với đối tượng học sinh trung bình và yếu các em chưa xác định được đâu là giới hạn những câu đối thoại của mình. Với thực tế trên, tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2” với mong muốn tích lũy thêm cho bản thân những kiến thức và kinh nghiện chỉ đạo 5/28
- chuyên môn nhằm đạt hiệu quả cao trong việc dạy học và chỉ đạo chuyên môn tổ khối và để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2: Trước tình hình thực tế dạy học của trường, qua thực tế giảng dạy và chỉ đạo công tác chuyên môn của tổ khối tôi đã rút ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2 như sau: 1. Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh qua từng giai đoạn: Để nắm được khả năng đọc của học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành tìm hiểu, phân loại học sinh. Tôi tiến hành kiểm tra các em về đọc và kiến thức trong bài. Kết quả điều tra kỹ năng đọc của học sinh lớp 2H do tôi phụ trách cũng như các lớp 2 trong khối trong đợt khảo sát chất lượng đầu năm như sau: Đọc đánh Lớp SL Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Còn chậm vần 2E 41 5 20 11 5 2G 42 8 26 3 5 2H 41 9 20 7 5 Hiểu Trả lời câu Trả lời Biết nghe và Mạnh dạn xử Học sinh nội hỏi trọng thành nhận xét bạn lý tình huống hứng thú, dung tâm bài câu đọc giao tiếp của thích học bài tập đọc. tập đọc 73% 53% 10% 42% 25% 76% Bên cạnh đó tôi đã trao đổi với giáo viên của năm trước, từ đó có thêm hiểu biết về khả năng học phân môn tập đọc của các em. Từ những hiểu biết trên, tôi lập thành các nhóm học tập. Mỗi nhóm có em khá và em kém để các em giúp đỡ lẫn nhau trong việc học tập và cũng để dễ dàng kiểm tra, hướng dẫn các em. 2. Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học 1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước cho bài học: Để giúp các em học tốt một bài tập đọc, tôi thường hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau: - Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 5 lần sau đó đọc thầm. Tìm xem bài tập đọc có mấy đoạn, mấy câu (mấy khổ thơ). - Đọc kĩ phần giải nghĩa các từ ngữ ở cuối bài. - Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ 6/28
- đó các em có thể nêu được nội dung bài tập đọc. - Tìm hiểu bài tập đọc thuộc thể loại gì (thơ hay văn xuôi). - Để giúp học sinh đọc tốt, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi trao đổi với phụ huynh, thống nhất phương pháp hướng dẫn học sinh học môn Tập đọc tại nhà. Từ đó phụ huynh học sinh có thể giúp đỡ các em chuẩn bị tốt bài Tập đọc của giờ học sau. - Chính vì có sự chuẩn bị chu đáo như vậy nên trong những giờ Tập đọc sẽ giúp các em đọc lưu loát, biết cách ngắt nghỉ đúng ở các dấu câu, dấu phẩy trong câu văn. Ví dụ: Khi dạy bài Ngôi trường mới tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị như sau: -Đọc thành tiếng 5 lần, dùng bút chì ghi số câu trong bài tập đọc. - Đọc kĩ phần giải nghĩa các từ: - > điều này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung bài đọc. - Học sinh tập trả lời miệng các câu hỏi để tìm hiểu nội dung bài: + Tìm đoạn văn ứng với từng nội dung sau: a, Tả ngôi trường từ xa b, Tả lớp học c, Tả cảm xúc của học sinh dưới mái trường mới. + Tìm những từ ngữ tả vẻ đẹp của ngôi trường + Dưới mái trường mới, bạn học sinh cảm thấy có những gì mới? Phần tìm hiểu này giúp học sinh nhớ được nội dung bài. Với sự chuẩn bị bài kỹ của học sinh như vậy nên ở trên lớp dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đọc lưu loát, tiến tới đọc hay, các em chủ động trong việc nắm bắt nội dung bài đọc, phát huy được tính cực, chủ động của học sinh trong giờ học. 2. Chuẩn bị của giáo viên: Qua thực tế giảng dạy, dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, tôi nhận thấy rằng để dạy thành công một tiết tập đọc, truyền thụ được kiến thức một cách khoa học, sâu sắc giáo viên cần chuẩn bị kỹ những việc sau: + Soạn bài cụ thể, chi tiết thể hiện rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng được các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng, đạt hiệu quả. + Nắm chắc yêu cầu rèn đọc ở từng bài. Đọc kĩ bài tập đọc sắp dạy, trao đổi học tập cách dạy của đồng nghiệp, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc phải và cách sửa các tình huống đó. + Tìm hiểu kĩ nội dung bài để hiểu được các biện pháp nghệ thuật tác giả đã 7/28
- dùng, từ đó xác định cách đọc đối với từng đoạn, từng bài để thể hiện đúng tình cảm của từng bài. + Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài tập đọc, đưa ra thêm những câu hỏi dẫn dắt để giúp học sinh phân tích, khai thác nội dung. 3. Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần đọc mẫu diễn cảm: Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng, đọc hay giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô. Đọc mẫu của GV bao gồm: - Đọc toàn bài: thường nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế học đọc cho HS. - Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích nội dung bài đọc. - Đọc từ, cụm từ: nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng cho học sinh Vấn đề đặt ra trước tiên, để đọc mẫu tốt, giáo viên cần tìm hiểu và cảm thụ bài văn, tìm hiểu bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm, tác giả tiếp đến là việc tìm hiểu nội dung, hình thức bài đọc: thể loại, bố cục, kết cấu, nghệ thuật. Hiểu được nội dung cảm thụ: cảm thụ sâu sắc, tính lôgic sẽ đọc diễn cảm tốt. Giọng đọc hay sẽ bắt đầu với cảm xúc của lòng mình, người đọc phải nhập vai lúc đó khả năng truyền cảm người nghe lớn hơn. Ví dụ: * Bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió” - Đoạn 1: Giọng kể chậm rãi - Đoạn 2: Nhịp nhàng hơn, nhấn giọng những từ ngữ tự sự, ngạo nghễ của Thần Gió, sự tức giận của ông Mạnh – “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quát, ngạo nghễ ” - Đoạn 3, 4: Đọc nhấn giọng các từ ngữ thể hiện quyết tâm chiến thắng Thần Gió của ông Mạnh; sự điềm tĩnh, kiên quyết của ông trước thái độ tức tối của Thần Gió, “quyết chống trả, quật đổ, thật vững chãi, lớn nhất, thật to, thét, không, giận dữ, lồng lộn ” 8/28
- - Đoạn 5: Kể về sự thoả thuận giữa ông Mạnh và Thần Gió – Đọc với giọng kể chậm rãi, thanh bình. Đọc thơ phải nắm vững đặc trưng của thơ. Đó là tiếng nói tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất, độc đáo, là kết tinh của trí tưởng tượng, phân tích. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, tính hàm xúc trong trong thơ. Vì vậy, khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm tác giả gửi gắm trong từng từ, từng dòng thơ, nhịp thơ, vần thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Ví dụ: Nhịp điệu 2/2 trong đoạn thơ dưới đây sẽ góp phần tích cực thể hiện nét vui tươi hoạt bát của chú bé liên lạc. “Chú bé / loắt choắt Cái xắc / xinh xinh Nhảy trên đường vàng. (Tố Hữu - Lượm) Ví dụ: Khi đọc bài “Cái trống trường em” (TV 2), giáo viên phải đọc những mẫu sao cho thể hiện chờ đợi, mong mỏi khi đọc các dòng thơ: “Suốt ba tháng liền” (kéo dài “Suốt”, đọc chậm “ba tháng”). Những câu sau tiếp đọc với giọng nhẹ nhàng tâm sự (khổ 3), giọng vui náo nức (khổ 4). Khi đọc mẫu, giáo viên cần giữ được tính tự nhiên của giọng đọc, tránh lên bổng xuống trầm một cách giả tạo, máy móc Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lối phát âm mà HS dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để luyện đọc trước. Nói tóm lại, việc giáo viên đọc mẫu là rất cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng phải giới thiệu cho các em mẫu đúng. Lời đọc mẫu đúng và hay của giáo viên có tác dụng định hướng cách đọc cho học sinh, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hơn nội dung bài đọc. Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc của giáo viên còn có ý nghĩa khơi gợi hứng thú và tưởng tượng của học sinh, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác phẩm và thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh đọc sao cho phù hợp với nội dung chính của bài văn, bài thơ. Ví dụ: biết nghỉ ngơi đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ đầu hay giữa các mục, các phần trong bài đọc, không đọc với nhịp nhanh, sôi nổi một bài cần đọc với giọng chậm rãi; không đọc với giọng vui vẻ một bài cần đọc với giọng trầm, buồn Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích, mẫu hình kĩ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó yêu cầu đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Giáo viên phải ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế ngồi đọc, hứng thú 9/28
- nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp, không nên đi lại trong khi đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em học sinh xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn. Như vậy, người giáo viên khi đọc phải làm sao để “đánh thức những cảm xúc ngủ yên trong chữ nghĩa, làm cho con cá biết bơi, con chim biết bay, con người biết đi, đứng, chạy nhảy như cuộc sống ngoài đời, bởi dạy văn tức là dạy người”. Giáo viên phải làm sao để học sinh thể hiện được cảm xúc chân thành khi nghe thầy đọc thơ: “Thêm yêu tiếng hát nụ cười Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn 4. Biện pháp thứ tư: Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ: 4.1. Cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc từ chú giải trong sách giáo khoa là không cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc phần chú giải? Vậy nếu như những bài tập đọc như: “Voi nhà” Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 6 từ chú giải mà giáo viên cứ đặt câu hỏi lôi 6 từ ra để học sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Tạp chí thế giới trong ta nêu quan niệm: Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần chú giải cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi học sinh đọc thầm nối tiếp nhau từng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể HS đọc chú giải mà vẫn chưa hiểu nghĩa của từ GV vận dụng cơ hội này để giảng từ, nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh. Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn còn thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của từ (nếu cần), bằng cách đặt câu hỏi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút từ chìa khoá để giảng cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của từ, tìm từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc đặt câu với từ cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những từ khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoặc từ chìa khoá giáo viên có thể kết hợp giảng để học sinh hiểu nội dung. 4.2. Xác định từ ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp lý: Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác định từ ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành. Theo tôi các từ ngữ cần giảng trong bài tập đọc là: 10/28
- + Từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa. + Từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen. + Từ ngữ đóng vai trò quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học. Trong một bài tập đọc cần xác định từ cần giảng và cách xác định từ là điều mà nhiều giáo viên còn lúng túng. Giảng ít từ khi thấy còn thiếu, giảng nhiều từ dẫn đến tham nói mất thời gian. Việc rút từ để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút từ chính xác, trọng tâm đó là: - Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy. - Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng từ khó và rút từ chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Từ khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu nghĩa của từ. Còn từ chìa khoá là từ yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi từ khó trùng với từ chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng). Có 6 cách giải nghĩa từ: + Đặt câu với từ cần giải nghĩa. + Tìm từ đồng nghĩa. + Từ trái nghĩa. + Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa. + Tách từ để miêu tả. + Sử dụng đồ dùng dạy hoc (vật thật, tranh ảnh) Cách tìm hiểu từ chủ yếu là phải đặt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 2 – tránh dài dòng, giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của HS. Ví dụ: Bài tập đọc: “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” Phần chú giải có 7 từ. Đó là: cầu hôn, lễ vật, ván, nộp, ngà, cựa, hồng mao. Các từ trên là từ khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là từ chìa khoá. Giáo viên cần căn cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích nạn lũ lụt ở nước ta là do Thuỷ Tinh ghen tức Sơn Tinh gây ra và nói lên tinh thần chống lũ của nhân dân nên từ chìa khoá ở đây là: đùng đùng nổi giận, cuồn cuộn, đuối sức. Việc rút từ chìa khoá của giáo viên không yêu cầu từ nào cũng phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài từ đó giúp các em đọc, viết đúng; đọc hay. 5. Biện pháp thứ năm: Rèn kỹ năng đọc ngắt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh: Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm. Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu. 11/28
- Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra ấn tượng về cảm xúc. 5.1. Kỹ năng ngắt giọng logic: Khi đọc một văn bản nếu gặp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm xuống dòng cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn, dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau: Ví dụ 1: Trong bài: Sơn Tinh, Thủy Tinh (Sách Tiếng Việt 2) Học sinh đọc: Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh/ Sơn Tinh gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua.// Học sinh đã đọc tách Sơn Tinh ra khỏi động từ “đánh” làm người nghe hiểu sai ý nghĩa của câu văn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt như sau: Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh/ gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua.// Ví dụ 2: Khi đọc một số câu thơ do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý đến sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã ngắt nhịp sai. Anh Lừa / lo chuyện / gạo tiền. Giấy tờ thỏ chạy/ giao liên tài tình. Nếu học sinh ngắt nhịp như trên đã tách cụm từ “thỏ chạy” ra khỏi cụm “giao liên tài tình” làm người nghe tưởng như chú giao liên tài tình chứ không phải “thỏ chạy giao liên tài tình” để khắc phục tình trạng đó với lớp 2 thì việc luyện đọc, đọc mẫu của giáo viên là cần thiết. Ngoài ra giáo viên cũng cần giảng để học sinh hiểu nội dung câu văn, câu thơ, quan hệ ngữ pháp để học sinh điều chỉnh nếu như học sinh đọc sai. 5.2. Ngắt giọng biểu cảm: Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 2, ngoài ra giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ còn ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ví dụ: Khi đọc 2 câu thơ cuối của bài tập đọc “Thư trung thu” (sách Tiếng Việt 2 12/28
- tập 2 trang 10). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc. Các cháu/ hãy xứng đáng Cháu Bác Hồ Chí Minh. Ngắt nhịp như thế người nghe sẽ thấy được tình cảm yêu thương sâu sắc của Bác và đó chính là lời động viên khuyến khích cũng là lời khuyên của Bác đối với thiếu nhi. Qua đó để thấy được tình yêu bao la của Người đối với các em. Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo viên đầu tư, chuẩn bị bài kỹ lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác, cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi GV cần: + Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuỵên, bài tập đọc, bài thơ. + Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện. + Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay chua ngoa. + Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn. 6. Biện pháp thứ sáu: Sử dụng linh hoạt trò chơi học tập: Đối với trẻ em trò chơi đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt, bước vào nhà trường, trẻ em làm quen với hoạt động học tập với những yêu cầu cao hơn. Chúng ta – những nhà sư phạm thấy rằng nếu biết sử dụng kết hợp hình thức trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu .Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên giáo viên cũng cần biết tổ chức trò chơi như thế nào cho hợp lý, không nên quá lạm dụng trò chơi, biến tiết học thành một hoạt động vui chơi vô bổ. Trò chơi học tập cần có yêu cầu khác với trò chơi thông thường. + Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí còn có mục đích củng cố tri thức, kỹ năng học tập. + Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và kỹ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức, kỹ năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra trò chơi thì người giáo viên cần dựa vào các kiến thức và kỹ năng của môn học. + Trò chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đòi hỏi thời gian dài. Trò chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù 13/28
- hợp với trình độ học sinh. Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi thường sử dụng trong tiết dạy tập đọc: * Trò chơi “Thi đọc truyện phân vai”: Mục đích: Tất cả học sinh đều được tham gia đọc và lựa chọn nhân vật mình yêu thích để đọc phân vai, từ đó khơi gợi hứng thú học tập cho các em. Cách chơi: Học sinh thảo luận theo nhóm sau đó cử ra mỗi bạn đọc lời một nhân vật rồi luyện đọc trong nhóm. Sau đó các nhóm thi đọc truyện phân vai. Các học sinh khác đóng vai trò giám khảo, nhận xét, đánh giá theo các tiêu chí đã xác định trước đó. Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc đầu tuần như bài “Tôm Càng và Cá Con” học sinh được thảo luận theo nhóm 4 – mỗi nhóm cử 3 em, một em được chọn đọc lời người dẫn truyện, một em đọc lời Tôm Càng, một em đọc lời của Cá Con. Sau khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên tổ chức cho từng nhóm tham gia thi đọc truyện phân vai. Giáo viên dành thời gian cho 2, 3 nhóm thi. Giáo viên cùng ban khảo nhận xét đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương. (Ban giám khảo do học sinh bầu ra). *Trò chơi “thả thơ”: Mục đích: Giúp học sinh ghi nhớ ngay tại lớp nội dung bài thơ thông qua trò chơi, tạo cho học sinh phong trào thi đua học tập sôi nổi. Cách chơi: Học sinh từng đội chuẩn bị mẩu giấy nhỏ ghi một câu thơ hay một cụm từ trong khổ thơ, sau đó mời đội bạn bốc thăm. Nếu đội bạn đọc đúng câu thơ hoặc khổ thơ đó sẽ ghi được điểm. Ví dụ: Khi dạy bài thơ cuối giờ, tôi cho học sinh chơi trò chơi Thả thơ bằng cách: - Giáo viên đưa ra luật chơi: +Học sinh đứng thành 2 đội, mỗi đội 3 học sinh + Một học sinh làm trọng tài + Thời gian chơi: 5 phút - Cách chơi: Học sinh trong từng đội chuẩn bị một mẩu giấy nhỏ trong có ghi một câu thơ hay một cụm từ có trong khổ thơ vừa học trong bài và trao mẩu giấy đó cho một người ở đội bạn. Nếu bạn nhận được mẩu giấy đó đọc được đúng khổ thơ có 14/28
- câu (cụm từ) đã ghi trong mảnh giấy thì đội bạn sẽ được ghi điểm. Trò chơi cứ lặp lại như vậy cho đến hết. *Trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”: Mục đích: Giúp học sinh củng cố các bài đã học thông qua hình thức đố vui. Cách chơi: Học sinh từng đội chuẩn bị mẩu giấy ghi đoạn vă, đoạn thơ, sau đó mời đội bạn bốc thăm. Nếu đội bạn đoán đúng tên bài đọc và tác giả thì giàng chiến thắng. Ví dụ: Đối với những tiết ôn tập ở từng giai đoạn ôn giữa kỳ I, kỳ II, cuối kỳ I, kỳ II tôi thường tổ chức trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”. Cách chơi: Hai nhóm tham gia chơi ngồi đối diện nhau. Cử nhóm trưởng điều hành hoạt động chung cả nhóm. Bắt thăm hoặc “oẳn tù tì” để chọn nhóm đọc trước. Nhóm đọc trước (A) được mở sách giáo khoa để lựa chọn đoạn văn (trong số các câu chuyện kể do giáo viên nêu ra, nhóm A cử người đọc đoạn cho nhóm B đoán tên chuyện, đoán tên bài tập đọc sau đó nhóm B đọc nhóm A đoán tên câu chuyện). Khi đoán tên bài tập đọc hoặc tên chuyện cả nhóm không được mở sách giáo khoa. Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm so sánh – nếu tổ chức cho cả 4 nhóm cùng chơi – khi kết thúc giáo viên chọn nhóm giỏi nhất để khen ngợi. Nếu điểm bằng nhau, nhóm nào đọc rõ ràng, rành mạch chính xác hơn là nhóm đó thắng cuộc. Ngoài ra với cách tổ chức trò chơi ở tập đọc giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi như: Thi đọc đồng thanh; biết một câu, đọc cả đoạn; tìm nhanh - đọc đúng; nhớ nhanh, đọc đúng; ghép các dòng thơ thành bài; đọc thơ truyền điện, Qua thực tế giảng dạy việc tổ chức trò chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều học sinh tham gia. Nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các trò chơi học tập có tác dụng tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức trò chơi lặp đi lặp lại trong tiết học gây sự nhàm chán cho học sinh. IV. KẾT QUẢ Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên đã thu được một số kết quả như sau: 1.Về giáo viên: 15/28
- Tôi đã sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết tập đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc từ khó, tiếng khó chữa lỗi cho học sinh triệt để. Việc giải nghĩa từ khó và rút từ chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo, biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ đặt câu hỏi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính. Lối tham giảng, nói nhiều đã được gạt bỏ dần. 2. Về học sinh: a) Kỹ năng đọc: Học sinh biết ngắt nghỉ sau các dấu câu, giữa các cụm từ dài, giữa các mục, các phần trong bài học. 92,7% học sinh đọc tốc độ 60tiếng/phút. Biết đọc thầm để hiểu nội dung và trả lời câu hỏi do giáo viên nêu ra. 30% học sinh biết rút ra nội dung sau mỗi bài tập đọc. b) Kỹ năng nghe: Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu học sinh bắt chước, có nhiều em đọc giống giọng đọc của giáo viên. Thậm chí có 2 đến 3 học sinh còn đọc hay hơn. Biết nghe bạn đọc và nhận xét cách đọc của bạn. Không khí lớp học sôi nổi. Mỗi lần giáo viên đặt câu hỏi tìm hiểu bài thường có 60-70% số học sinh giơ tay phát biểu. c) Kỹ năng nói: 70% học sinh nói dõng dạc, nói có đầu có cuối khi được giáo viên hỏi. Lời nhận xét rõ ràng, các em đã có thói quen một số thao tác cơ bản như: Phân tích, phán đoán, so sánh, lựa chọn Điều đáng nói ở đây là các em hứng thú học tập và tự giác tham gia vào các hoạt động học tập. Kết quả khảo sát vào cuối kì I của lớp 2H so với các lớp trong khối 2 như sau: Lớp SL Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Còn chậm Đọc đánh vần 2E 41 12 24 5 0 2G 42 15 29 8 0 2H 41 18 23 0 0 16/28
- V. MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HỌA Tên bài dạy: Thời khóa biểu Tuần 7 – Tiết 21 KẾ HOẠCH DẠY HỌC PHÂN MÔN: TẬP ĐỌC BÀI: THỜI KHÓA BIỂU A. MỤC TIÊU: 1. Kiến thức: - HS phân biệt được các tiết học. - HS hiểu được ý nghĩa, tác dụng của thời khóa biểu. 2. Kĩ năng: - HS đọc đúng tên các tiết học trong thời khóa biểu. - Rèn kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng trình bày cho hs. 3. Thái độ: - HS yêu thích môn Tiếng Việt, tích cực tham gia các HĐ học tập. B. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: - GV: Giáo án điện tử, thẻ từ. - HS: SGK, vở. C. TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY TG NỘI DUNG Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1’ 1. Ổn định tổ chức: - GV giới thiệu. - HS lắng nghe 2. Kiểm tra bài cũ: 7’ - Đọc đoạn 3 và TLCH - GV mời HS - HS đọc và trả lời 4 - GV gọi hs nhận xét - Hs nhận xét - Nx: Chắc hẳn tối qua con đã chuẩn bị bài chu đáo. Vậy dựa vào đâu mà con biết các tiết học của ngày hôm nay để chuẩn bị bài ? 3. Bài mới: - Gv giới thiệu bài, ghi bảng. - HS trả lời . 3.1 Giới thiệu bài - Gv đưa TKB - Hs ghi vở - ? Các con nhận ra đây là gì ko ? - HS theo dõi -? Trên TKB ghi những gì ?( thứ tự các tiết học theo các ngày trong - Hs trả lời tuần) - Qua tiết học này chúng ta sẽ cùng nhau luyện đọc và tìm hiểu tác 17/28
- Sơ đồ dụng của TKB nhé. (Gv gắn mục tiêu bài học) 3.2 Luyện đọc - Trước tiên cô mời cả lớp theo dõi 3.2.1 Đọc mẫu cô đọc mẫu. - HS lắng nghe 3.2.2 Luyện đọc nối - Gv đọc mẫu toàn bài. tiếp theo từng - Gv yêu cầu hs đọc nối tiếp từng - 10 Hs đọc buổi buổi mỗi ngày (gv chỉ) - Từ khó - Gv nhận xét - 2,3 hs đọc từ khó Tiếng Anh, Kể chuyện, - Gv ghi bảng vào sơ đồ những từ Chính tả, Thủ công, Mĩ hs đọc sai, gọi hs đọc lại thuật. - Gv nhận xét 8’ 3.2.3 Luyện đọc đoạn - TKB là bảng chia theo các dòng, các cột nên cách đọc giống với bài - 1 HS đọc. nào chúng ta đã học ở tuần 5 ? - 1-2 HS trả lời. - Vậy đọc bài này ta cần nghỉ hơi thế nào? - HS cả lớp nhận thẻ - Gv lưu ý hs ngắt hơi sau mỗi tiết, - Luyện đọc nhóm nghỉ hơi sau mỗi buổi hoặc mỗi (theo 2 cách) ngày. (gắn bảng sơ đồ) - Bây giờ chúng ta sẽ cùng luyện đọc theo từng ngày, đọc thứ-buổi- tiết (máy chuyển màu) - Gv gọi 5hs đọc nối tiếp 5 ngày. - Gv nhận xét - Ngoài cách đọc này, bạn nào có cách đọc khác ? -Với TKB, chúng ta cũng có thể đọc theo buổi- thứ-tiết (máy chuyển màu) - Cô mời cả lớp chia nhóm 5 luyện đọc theo cả 2 cách. - Gv gọi 2 nhóm thi đọc theo từng cách. - Gv nhận xét - Mời 1 hs đọc lại toàn bài 18/28
- 8’ 3.2.4 Tìm hiểu bài - Vừa rồi cô thấy lớp mình đã đọc - HS thảo luận. đúng, trôi chảy TKB. Để tìm hiểu nội dung bài, cô mời cả lớp thảo luận nhóm đôi trong 1 phút trả lời - 1 nhóm lên trình những câu hỏi sau: bày. + Một tuần có mấy tiết Toán ? +Tiết học tự chọn (ô màu vàng) là - HS nhận xét tiết gì ? - 1 nhóm lên trình + Một tuần có tất cả bao nhiêu tiết ? bày. - 35 tiết học trong 1 tuần của hơn 10 môn và phân môn, TKB giúp - HS nhận xét ích gì cho chúng ta ? Cô mời cả lớp -1-2 HS nêu cùng xem một đoạn phim sau để - HS lắng nghe. tìm câu trả lời nhé. - Gv bật phím. - ? Bạn trong phim dựng TKB để làm gì ? - Những ai cũng biết sử dụng TKB giống bạn rồi ? - Cô kt thử nhé +Để chuẩn bị cho ngày mai, con nhìn TKB thứ mấy ? + Ngày mai có những tiết nào ? + Con cần chuẩn bị sách vở gì 19/28
- trước khi đến lớp ? - GV nx - Luyện đọc lại - Để đọc tốt hơn, hay hơn chúng mình cần đọc giọng rõ ràng, dứt khoát từng tiết. (gắn bảng và chỉ) . - Gv cho hs luyện đọc lại theo - HS lắng nghe. nhóm 5 - Gv gọi 2hs lên đọc - Gọi hs nx 4. Củng cố, dặn dò - Gv tổ chức cho hs chơi tiếp sức theo tổ: lên gắn các tiết trong 1 ngày theo thứ tự - Gọi hs đọc - Nx trò chơi, phân định thắng thua -Dặn dò về nhà sd TKB chuẩn bị thật tốt việc học. IV) Rút kinh nghiệm bổ sung: 20/28
- KẾ HOẠCH BÀI DẠY MÔN TẬP ĐỌC TÊN BÀI DẠY: BÀN TAY DỊU DÀNG Tuần 8 – Tiết 24 I.Mục tiêu: 1.Kiến thức: - Hiểu một số từ khú: âu yếm, dịu dàng, trìu mến - Hiểu được nội dung của bài : Thái độ ân cần của thầy giáo đã giúp An vượt qua nỗi buồn mất bà và động viên bạn học tốt hơn, không phụ lòng tin yêu của mọi người. 2. Kĩ năng: - Rèn các kĩ năng đọc thành tiếng cho học sinh - Biết đọc toàn bài, đọc đúng các từ ngữ - Biết ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ; bước đầu biết đọc giọng nhân vật phù hợp với nội dung. 3. Thái độ: - Biết kính trọng thầy cô giáo, luôn cố gắng phấn đấu trong học tập. II. Đồ dùng dạy học: -Giáo án điện tử, thẻ từ, III. Các hoạt động dạy học: Thời NỘI DUNG Hoạt động của GV Hoạt động của HS gian 1’ 1.Ổn định tổ chức GV giới thiệu HS lắng nghe 3’ 2.Kiểm tra bài cũ: - GV mời HS - HS trình bày Bài: Người mẹ hiền - GV gọi HS nhận xét - HS nhận xét Đọc đoạn 4 và TLCH - GV kết luận, chuyển ý 3.Bài mới - GV giới thiệu bài, ghi - HS ghi bài và theo 21/28
- 3.1Giới thiệu bài bảng dõi. - GV nêu mục tiêu bài học 3.2 Luyện đọc 3.2.1 Đọc mẫu - GV đọc mẫu toàn bài - HS lắng nghe 3.2.2 Luyện đọc từng câu - Luyện đọc từ khó - GV yêu cầu HS đọc nối - HS lần lượt đọc nối tiếp từng câu và luyện tiếp và luyện đọc từ đọc từ ngữ khó (lòng khó. nặng trĩu nỗi buồn, lặng lẽ) 3.2.3. Luyện đọc từng đoạn - Ngắt, nghỉ hơi sau câu dài Đoạn 1 - GV yêu cầu HS đọc - 1 HS đọc đoạn 1. đoạn 1. - HS nêu cách ngắt - GV yêu cầu HS nêu hơi. cách ngắt hơi câu : ô Bà - HS đọc lại. của An mới mất nên An xin nghỉ học mấy ngày liền. -GV nhận xét- chốt cách ngắt nghỉ đúng. Đoạn 2, 3 22/28
- - GV yêu cầu 2HS đọc - HS lần lượt đọc nối nối tiếp đoạn 2 và 3. tiếp từng đoạn. - GV lưu ý HS nghỉ lấy hơi chỗ có dấu câu. 3.2.4. Luyện đọc theo - GV yêu cầu HS luyện - HS lần lượt đọc nhóm đọc theo nhóm. theo nhóm - Các nhóm thảo luận và đọc bài. 3.3 Tìm hiểu bài 3.3.1 Đọc thầm đoạn 1 và trả lời câu hỏi: - GV gọi HS trả lời câu - HS trả lời câu hỏi hỏi : Tìm những từ ngữ cho thấy An rất buồn khi bà mới mất? - GV gọi HS nhận xét - HS trả lời bổ sung - GV kết luận, chuyển ý - HS lắng nghe 3.3.2 Đọc thầm đoạn 2,3 và trả lời câu hỏi: + GV gọi HS trả lời câu hỏi - HS trả lời câu hỏi Vì sao thầy giáo không -HS nhận xét-bổ trách An khi biết bạn sung. không làm bài tập? + Tìm những từ ngữ thể hiện tình cảm của thầy giáo đối với An? - GV gọi HS nhận xét -HS nhận xét. 23/28
- - GV kết luận, chuyển ý - HS trả lời bổ sung - GV yêu cầu HS thảo - HS thảo luận nhóm luận nhóm đôi và trả lời câu hỏi : +Tìm những từ ngữ thể hiện tình cảm của thầy giáo đối với An ? - GV gọi HS lờn gắn thẻ - HS lên bảng gắn thẻ từ - GV kết luận. - HS khác nhận xét- bổ sung. - GV hỏi HS : - HS trả lời + Con thấy thầy giáo trong bài đọc thế nào ? + Các con có yêu quý thầy cụ của mình không ? + Các con sẽ làm gì để đáp lại tình cảm yêu thương đó của các thầy cô ? 3.3.3. Chốt kiến thức - GV chốt kiến thức. - HS lắng nghe. 3.4 Luyện đọc lại Giọng đọc nhẹ nhàng, tình - GV gọi 1 HS giỏi đọc - HS trả lời. cảm bài. - GV yêu cầu cả lớp nhận xét giọng đọc của bạn đó phù hợp với nội dung bài chưa ? => NX và chốt giọng -HS nhận xét đọc-ghi bảng. -HS gạch chân các từ - Gọi 1HS giỏi khác đọc. cần nhấn giọng trong - GV yêu cầu nhận xét SGK. cách nhấn giọng ở một số từ của bạn => GV chốt -GV gọi 1HS đọc hay -HS đọc hay đoạn 3 24/28
- đoạn 3 và 1 HS đọc cả và đọc cả bài bài. 3.5 Luyện đọc phân vai - GV yêu cầu HS hình - HS đọc phân vai thành nhóm 2 và đọc theo vai. Nêu giọng từng nhân vật và phân vai nhân vật - GV gọi 2 nhóm thi đọc - HS thi đọc phân vai phân vai - GV gọi HS nhận xét - HS nêu nhận xét - GV tuyên dương các nhóm đọc tốt. 3.6 Củng cố - GV gọi HS đọc lại bài - HS đọc lại bài - Hãy tìm tên khác phù hợp nội dung bài để đặt -HS nêu tên cho bài TĐ này . Dặn dò - GV dặn HS đọc lại bài TĐ và trả lời câu hỏi trong bài. IV/ Rút kinh nghiệm, bổ sung: . 25/28
- C. KẾT LUẬN I. KẾT LUẬN: Phân môn tập đọc chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Tểu học. Đó là phân môn nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình nói chung và môn Tiếng việt nói riêng. Thực tế cho thấy rằng nếu như học sinh đọc diễn cảm, hiểu nội dung bài tập đọc, các em sẽ vận dụng và làm bài văn hay, diễn đạt gãy gọn khi nói, khi viết trong việc học các môn khác của chương trình. Để dạy tốt phân môn Tập đọc trong quá trình giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm như sau: Ngay từ đầu năm học giáo viên phải ổn định nề nếp, thói quen cầm sách – tập cho học sinh cách trả lời câu hỏi và điều tra, khảo sát chất lượng học tập của học sinh để có hướng giảng dạy phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên cần bám sát chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, nhiệm vụ của phân môn tập đọc đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, của lớp mình phụ trách để chọn những hình thức tổ chức và phương pháp dạy học thích hợp. Phải tự học, tự bồi dưỡng về lý luận văn học – khi giáo viên có kiến thức về lí luận văn học sẽ có năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ nhờ đó giáo viên mới có giọng đọc mẫu chuẩn xác. Việc chuẩn bị bài của giáo viên chiếm vị trí quan trọng. Trong khi chuẩn bị bài giáo viên mới xác định nội dung, mục tiêu cần truyền thụ, có khả năng lựa chọn 26/28
- từ khóa của bài chính xác đồng thời nghiên cứu hệ thống câu hỏi sách giáo khoa. Dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để chuẩn bị thêm các câu hỏi gợi mở và dự kiến các tình huống xảy ra. Đặc điểm là chuẩn bị bài giảng ngắn gọn, súc tích. Mục tiêu chính của Tập đọc lớp 2 là rèn kỹ năng đọc. Giáo viên cố gắng tạo mọi điều kiện để các em được đọc. Việc tìm hiểu nội dung bài chủ yếu là dựa vào hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa. Giải nghĩa từ phải đặt trong văn cảnh - giáo viên không nên tham lam, dài dòng, mất thời gian. Chất lượng sinh hoạt chuyên môn của tổ tốt sẽ có tác động tích cực làm tiền đề quan trọng để giúp giáo viên học hỏi - đúc rút kinh nghiệm giảng dạy để chất lượng trên lớp ngày càng tốt hơn. Trong tiết tập đọc giáo viên cần phân loại đối tượng – có yêu cầu riêng với từng đối tượng học sinh. Với những học sinh đọc chưa đạt chuẩn về tốc độ giáo viên cần ưu tiên để các em được đọc nhiều. Giáo viên cần linh hoạt khi lên lớp. Lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức cho học sinh được “chơi mà học” nhằm kích thích, khơi gợi sự hứng thú của các em. II. KIẾN NGHỊ: Việc dạy cho học sinh kĩ năng đọc tốt không phải là việc làm một sớm một chiều. Song thông qua tất cả các môn học trong trường Tiểu học, giáo viên đều có thể rèn đọc cho học sinh ở mọi lúc mọi nơi. Phân môn Tập đọc có tác dụng và vai trò quan trọng đối với học sinh tiểu học đặt nền móng để các em đi vào kho tang tri thức bằng ngôn ngữ của mình. Qua việc nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn không chỉ riêng tôi mà mọi giáo viên tiểu học đều hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của phân môn Tập đọc trong bộ môn Tiếng Việt để trong quá trình giảng dạy, rèn tốt cho học sinh kĩ năng đọc và khả năng cảm thụ của học sinh. Tuy nhiên, với khả năng của bản thân còn hạn chế, bài viết cũng chỉ đáp ứng được phần nào của việc dạy Tập đọc mà thôi. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp giúp tôi đưa ra được những biện pháp rèn đọc cho học sinh có hiệu quả hơn nữa. tốt hơn giờ Tập đọc trên lớp. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm 2019 CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Người viết 27/28
- Vũ Thị Hoàng Oanh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. (Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh Hưởng – NXB Giáo dục) 2. Hỏi đáp vè dạy Tiếng Việt 2 (Nguyễn Minh Thuyết - NXB Giáo dục) 3. Phương pháp dạy các môn học lớp 2 (Bộ giáo dục và đào tạo - NXB Giáo dục ) 4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 5. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2. 6. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng các lớp 1, 2, 3 (Bộ Giáo dục và Đào tạo) 7. Trò chơi Tiếng Việt 8. Tham khảo trên mạng Intenet 28/28