Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

docx 17 trang thienle22 5972
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_trong_viec_ren_ky_nan.docx

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG VIỆC RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 Môn: Toán Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Trần An Thanh Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trung Tự Chức vụ: Giáo viên cơ bản NĂM HỌC 2018 - 2019 0/16
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I – MỞ ĐẦU 2 I. Lý do chọn đề tài 2 II. Mục đích nghiên cứu 3 III. Đối tượng nghien cứu 3 IV. Phương pháp nghiên cứu 3 V. Phạm vi nghiên cứu 3 PHẦN II – NỘI DUNG 4 I. Cơ sở lý luận 4 II. Cơ sở thực tiễn 4 III. Thực trạng 5 IV. Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải Toán 6 có lời văn cho học sinh lớp 2 1.Mục tiêu của biện pháp 6 2. Nội dung cách thức thực hiện các biện pháp 6 2.1. Khảo sát và phân loại trình độ học sinh 6 2.2. Rèn kĩ năng đọc đề toán 6 2.3. Rèn óc sáng tạo, tư duy cho học sinh 6 2.4. Rèn luyện kỹ năng tính toán đúng kết quả 7 2.5. Hướng dẫn chi tiết quy trình giải bài toán có lời văn 7 V. Kết quả 14 PHẦN III – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 15 I.Kết luận 15 II. Kiến nghị 15 Tài liệu tham khảo 16 1/16
  3. PHẦN I - PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Môn Toán là một trong những môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục tiểu học. Môn học góp phần to lớn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Với đặc trưng của môn học, môn toán chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kĩ năng toán học cơ bản cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đây cũng là môn học giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề; đồng thời rèn luyện trí thông minh sáng tạo và các đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó, thích chính xác Trong chương trình tiểu học, môn toán chiếm thời lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, môn toán không được phân chia thành các phân môn chuyên biệt mà là sự kết hợp của 5 tuyến kiến thức được sắp xếp xen kẽ nhau (số học, hình học, đại lượng, thống kê mô tả và giải toán) . Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Đây là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học. Khi giải toán có lời văn các em sẽ vận dụng các kiến thức đã học để giải các loại toán về số học, yếu tố đại số, yếu tố hình học và đo đại lượng. Ngược lại, thông qua học giải toán, học sinh được củng cố khắc sâu các kiến thức về số học, về đại lượng, đo đại lượng, về hình học Mặt khác, dạy học giải toán toán còn giúp rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tính toán với các phép tính về số học, quan trọng hơn cả là giúp học sinh hình thành phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. Vì vậy, khả năng giải toán sẽ phản ánh lại năng lực vận dụng kiến thức toán học của học sinh. Giải toán có lời văn là học cách giải quyết vấn đề của môn toán. Đồng thời, giải toán có lời văn còn là cầu nối giữa toán học và các môn học khác, giữa toán học và thực tế cuộc sống. Trong khi đó, giải toán có lời văn là dạng toán khó đối với học sinh, các em thường gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài toán, xác định yêu cầu của bài toán. Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm phù hợp với nội dung dạy học mới đồng thời có thể khắc phục dần những hạn chế của học sinh. Đây chính là những điều tôi băn khoăn, trăn trở và đi đến quyết định nghiên cứu Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 2. II. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa ra được các cách tóm tắt đề toán, phương pháp giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của 2/16
  4. học sinh lớp 2, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh. III. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 2D - trường Tiểu học Trung Tự - Đống Đa – Hà Nội IV. Phạm vi nghiên cứu: - Phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2 - Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học sinh lớp 2D ở trường Tiểu học Trung Tự. V. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, phân loại, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thực nghiệm, 3/16
  5. PHẦN II - NỘI DUNG I.Cơ sở lí luận: Học sinh tiểu học được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1 và học liên tục đến lớp 5. Dạng toán có lời văn được xem như chiếc cầu nối kiến thức toán học trong nhà trường và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tế, đời sống xã hội. Chính vì vậy, muốn học sinh giải quyết tốt những bài toán có lời văn thì việc giúp các em hiểu được bài toán và biết cách tóm tắt đúng các bài toán là một việc quan trọng, là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng của bài giải. Qua tóm tắt, giải bài toán có lời văn giúp học sinh rèn tư duy lôgic óc suy luận, khả năng phân tích, tổng hợp và khả năng trình bày khoa học . II. Cơ sở thực tiễn: Để dạy tốt môn Toán nói chung, giải bài toán có lời văn nói riêng, điều đầu tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5. Ở tiểu học thường có các dạng toán sau đây : - Những dạng toán thuộc loại toán đơn: thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm số bị trừ, tìm số hạng chưa biết, tìm tích, chia thành nhiều phần bằng nhau, chia thành nhóm, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, so sánh hai số hơn, kém nhau bao nhiêu đơn vị, tìm một phần mấy của một số, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó, tìm vận tốc, tìm thời gian, tìm quãng đường, - Những dạng toán thuộc loại toán hợp: loại giải bằng 2 phép tính chia, nhân có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : b c ; loại giải bằng 2 phép tính chia có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : (b : c). - Những dạng thuộc loại toán điển hình: tìm trung bình cộng của nhiều số, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ, - Tuyến kiến thức về giải toán ở tiểu học: + Lớp 1: Giới thiệu bài toán có lời văn ; giải các bài toán bằng một phép tính (một phép cộng hoặc một phép trừ) ; chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị. + Lớp 2: Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ; các bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị ; phép nhân và phép chia; bước đầu làm quen 4/16
  6. giải bài toán có nội dung hình học (tính chu vi các hình đã học), các bài toán liên quan đến các phép tính với các đơn vị đo đã học (km, m, dm, cm, mm, kg, lít). + Lớp 3: giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản ; giải các bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học. + Lớp 4: giải các bài toán có đến hai hoặc ba bước tính, có sử dụng phân số ; giải các bài toán liên quan đến : tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, tìm số trung bình cộng, các bài toán có nội dung hình học đã học) ; giới thiệu bước đầu về việc sử dụng toán học lớp 4 để giải quyết các vấn đề của thực tế. + Lớp 5: giải các bài toán có đến ba bước tính là chủ yếu. Đó là các bài toán đơn giản về tỉ số phần trăm : tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó; các bài toán đơn giản về chuyển động đều, chuyển động ngược chiều và cùng chiều : tìm vận tốc khi biết thời gian chuyển động và độ dài quãng đường, tìm thời gian chuyển động khi biết vận tốc chuyển động và độ dài quãng đường, tìm độ dài quãng đường khi biết thời gian chuyển động và vận tốc chuyển động ; các bài toán về quy tắc tam suất đơn (thuận, nghịch) ; các bài toán có nội dung về tìm diện tích, thể tích các hình đã học ; các bài toán ứng dụng các kiến thức đã học để giải quyết một số vấn đề của đời sống. - Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5: + Câu lời giải. + Phép tính giải. + Đáp số. - Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương trình trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm tắt và trình bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động giảm bớt một số bài tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ GD&ĐT). III. Thực trạng: Toán học có tầm quan trọng rất lớn trong việc học tập của học sinh. Nhờ biết tính toán học sinh mới vận dụng được vào thực tế cuộc sống. Cho nên việc dạy cho học sinh tính toán thông thạo luôn được người giáo viên đặt lên hàng đầu. Bên cạnh việc tính toán cộng, trừ, nhân, chia thì giải toán có lời văn cũng rất cần thiết đối với học sinh. Đặc biệt là bài toán có lời văn, nó đòi hỏi học sinh 5/16
  7. phải hiểu biết và tư duy. Từ đó, giúp học sinh nâng cao kiến thức, nâng tầm hiểu biết, ham học toán. Qua khảo sát đầu năm tại lớp 2D do tôi làm chủ nhiệm, lớp có tổng số 41 học sinh thì tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành ở bài toán có lời văn là 41%. Điều này càng thôi thúc tôi phải tìm ra những biện pháp hữu ích để giúp các em học sinh đều làm đúng phép tính, ghi lời giải chuẩn xác và ghi đáp số rõ ràng trong giải toán có lời văn. IV. Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải Toán có lời văn: 1. Mục tiêu của biện pháp Đề tài tôi đưa ra không ngoài mục tiêu là giúp người giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán, tìm cách giải các bài toán có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau : - Học sinh nhận biết “cái đã cho”, “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan hệ giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, biết lập luận để đưa ra cách tóm tắt dễ hiểu nhất - Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa các đại lượng thông dụng. - Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán. 2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp: 2.1. Biện pháp 1: Khảo sát và phân loại trình độ học sinh Trong một lớp học, trình độ học sinh không đồng đều, giáo viên cần kiểm tra, rà soát lại trình độ học sinh, tìm hiểu xem học sinh chưa hoàn thành thì giải bài toán có lời văn còn sai chỗ nào, lời giải hay phép tính. Từ đó, có biện pháp kịp thời tư vấn, tác động đến đối tượng học sinh đó. Đưa ra những câu hỏi gợi mở kịp thời, hợp lí, dễ hiểu để học sinh nắm được cách giải bài toán. 2.2. Biện pháp 2: Rèn kỹ năng đọc đề toán cho học sinh Giáo viên yêu cầu học sinh cần đọc kỹ đề bài toán khoảng 1 phút đến 2 phút để hiểu được đề bài toán. Từ đó, học sinh biết được những dữ kiện, dữ liệu bài toán, cái nào có rồi cái nào chưa có, chưa có thì phải đi tìm thì mới giải bài toán được. Dần dần những học sinh này sẽ có được thói quen đọc kỹ, tìm hiểu kỹ đề bài. 2.3. Biện pháp 3: Rèn óc sáng tạo, tư duy cho học sinh Giáo viên ra nhiều đề toán khác nhau đúng với chuẩn kiến thức kỹ năng, từ dễ đến khó nâng dần mức độ giải toán cho học sinh từ thấp đến cao. Để học sinh không còn suy nghĩ máy móc, bắt chước và lúng túng khi gặp dạng toán khác. Giáo viên có thể thực hiện bằng cách: cho bài toán thứ nhất học sinh giải được, bài toán thứ hai khó hơn giáo viên cho học sinh làm vào phiếu học tập, 6/16
  8. giáo viên thu lại kiểm tra, phân loại nhóm học sinh nào hoàn thành, nhóm nào chưa hoàn thành. Giáo viên tư vấn thúc đẩy cho nhóm học sinh chưa hoàn thành. 2.4. Biện pháp 4: Rèn luyện kỹ năng tính toán đúng kết quả Giáo viên cho học sinh làm các phép tính cộng, trừ, nhân, chia vào 15 phút đầu giờ, trong các giờ học buổi chiều. Hình thức học sinh sẽ làm bài bảng lớp, bảng con hoặc vở nháp. Bên cạnh đó, học sinh về nhà tự làm lại các phép tính cộng, trừ, nhân, chia đã thực hiện trên lớp sau đó đối chiếu lại kết quả mà giáo viên đã sửa trên lớp. Tính toán nhiều thì học sinh mới có kỹ năng tính nhanh, tính đúng. 2.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn chi tiết quy trình chung khi giải bài toán có lời văn ở lớp 2 Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau: - Tìm hiểu nội dung bài toán - Tìm cách giải bài toán - Thực hiện cách giải toán - Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán. Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải toán nói trên. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn thường xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em thói quen thực hiện giải toán theo 4 bước đó. 2.5.1. Tìm hiểu nội dung bài toán Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán. Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm.Có thể nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc giải toán của học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô hình hay dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học để giúp các em hiểu khái niệm 7/16
  9. "nhiều hơn ", "ít hơn”, ‘thêm”, “bớt”, trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Giáo viên cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học giúp các em được rèn luyện nhiều hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt. Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc lòng mà bằng cách diễn đạt của mình. Sau khi đọc bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán: - Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước là một gạch) - Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như trên, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm theo quy ước là hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện thường xuyên sẽ rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán. - Những điều kiện của bài toán: Đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số. Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- SGK Toán 2) + Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ + Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ? Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước rồi mới biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen với nhau. Ví dụ 1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm? (bài 3 – trang 153- SGK Toán 2) + Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác. + Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 - trang 136 - SGK Toán 2) + Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh +Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm? 2.5.2. Tìm cách giải toán Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ 8/16
  10. kiện, ẩn số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau: - Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho, cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể tóm tắt đề toán theo các cách sau: + Tóm tắt bằng lời + Dùng sơ đồ đoạn thẳng + Dùng ngôn ngữ và kí hiệu + Dùng chữ thay số + Dùng sơ đồ Graph + Dùng bảng + Dùng sơ đồ ven + Dùng hình vẽ +Dùng hình tượng trưng Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng. Ví dụ 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong vườn có tất cả bao nhiêu cây táo? Tóm tắt: Có : 9 cây táo Thêm : 6 cây táo Tất cả có : cây táo? Ví dụ 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh? Tóm tắt 29 họcsinh 2A: 2B: 5 học sinh học sinh ? Ví dụ 3: Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn lại mấy quả bóng bay? Tóm tắt : học sinh Có : Cho bạn Còn lại : quả ? 9/16
  11. Đối với một số bài toán nâng cao có thể dùng thêm các dạng tóm tắt khác cho học sinh dễ tìm ra cách giải. Ví dụ: Tìm một số biết rằng số đó lần lượt cộng với 1 rồi nhân với 2, được bao nhiêu đem chia cho 3 rồi trừ đi 4 thì được 5. Tóm tắt : +1 2 :3 4 ? 5 Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà lựa chọn cách tóm tắt mang nhiều hay ít tính trực quan. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn tóm tắt bài toán bằng cách đàm thoại (Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?). Học sinh dựa vào các dữ kiện của bài toán (phần đã gạch chân) để trả lời các câu hỏi của giáo viên và từng bước hoàn thành tóm tắt bài toán. - Lập kế hoạch giải toán nhằm xác lập trình tự giải quyết, thực hiện các phép tính số học: Có hai hình thức thể hiện tương ứng với hai phương pháp phân tích bài toán để tìm cách giải cho một bài toán, tùy từng bài toán cụ thể mà ta lựa chọn phương pháp tìm cách giải phù hợp. + Phép phân tích xuôi: Là phương pháp tìm cách giải đi từ dữ kiện của bài toán đến câu hỏi của bài toán. Từ những cái đã cho (đã có) suy ra hoặc tính được điều gì giúp ích cho việc giải toán không? Cứ như thế ta suy luận để tìm ra cách giải toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?” (bài 3 -trang 11 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: - Bài toán đã cho biết những gì? (Lớp 2A có 18 học sinh, lớp 2B có 21 học sinh) - Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh?) - Để biết cả hai lớp có bao nhiêu học sinh ta làm phép tính gì? (Làm phép tính cộng) + Phép phân tích ngược: Là phương pháp đi từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện của bài toán. Tức là phải tập trung vào câu hỏi của bài toán và suy nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì và phải làm phép tính gì? Trong những điều kiện cần thiết phải biết đó thì cái nào là cái có sẵn, cái nào phải tìm và tìm như thế nào? Cứ như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán trở về các điều kiện của bài toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy 10/16
  12. nhóm?”( trang 136 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: - Bài toán hỏi gì? (Chia được thành mấy nhóm?) - Bài toán hỏi về số nhóm được chia từ mấy học sinh? ( Số nhóm được chia từ 12 học sinh) - Muốn biết từ 12 học sinh chia được thành mấy nhóm ta phải biết gì? (Biết mỗi nhóm có mấy học sinh?) - Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi nhóm có bao nhiêu học sinh? (mỗi nhóm có 3 học sinh) - Để biết chia được thành mấy nhóm ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia) 2.5.3. Thực hiện cách giải bài toán. Hoạt động này bao gồm việc thực hiện phép tính đã được nêu trong bước tìm cách giải bài toán nêu trên và trình bày bài giải. Cách trình bày bài giải như sau: - Viết câu lời giải: Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều học sinh rất lúng túng khi viết lời giải, vì ở lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản. Bởi vậy, ở những tiết toán có bài toán giải có lời văn, giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em hình thành và ghi nhớ kĩ năng giải toán. Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2. “ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”. Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: Lớp 2A có : 18 học sinh. Lớp 2B có : 21 học sinh. Cả hai lớp có : học sinh? Học sinh nêu miệng câu lời giải: Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là: Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (học sinh) Tiếp đó, cho học sinh tự trình bày bài giải. Ở những bài toán trong các tuần đầu, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng bài toán nhiều lần để các em ghi nhớ cách trình bày một bài giải. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định . Đối với bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau: 11/16
  13. Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Cả hai lớp có số học sinh đang tập hát là:" Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ "học sinh" ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số học sinh cả hai lớp đang tập hát là:" Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Cả hai lớp có : học sinh ?". Học sinh viết câu lời giải: " Cả hai lớp có số học sinh là:" Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: " Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?" để học sinh trả lời miệng: "Cả hai lớp có 39 học sinh đang tập hát" rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 18 + 21 = 39 (học sinh), giáo viên chỉ vào 39 và hỏi: "39 học sinh ở đây là số học sinh của lớp nào?" (là số học sinh của cả hai lớp). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số học sinh cả hai lớp là" v.v Giáo viên có thể vận dụng các cách khác nhau để dẫn dắt học sinh tìm lời giải, không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu lời giải nào đó. Tốt nhất là giáo viên gọi nhiều học sinh nêu các lời giải khác nhau rồi lựa chọn và chỉnh sửa (nếu chưa chính xác) thành lời giải phù hợp nhất cho bài giải. Sau đó cho học sinh yếu kém nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng với yêu cầu của bài toán phải dựa vào cái cần tìm (đây cũng chính là câu hỏi của bài toán ) Tuy nhiên đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp khúc có số đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một cách chính xác các khái niệm như: "đại lượng", "Số đo của một đại lượng" để giúp học sinh tránh những sai lầm đồng nhất "đoạn thẳng" với "độ dài đoạn thẳng" hay "số đo đoạn thẳng". Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK Đọan thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu cm? Học sinh không viết câu lời giải: "Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là" mà phải viết là: "Độ dài đoạn thẳng CD là". - Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị 12/16
  14. vào sau kết quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn. - Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu hỏi của bài toán. Giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho các em cách viết từ “Đáp số” lùi vào mấy ô li so với từ “Bài giải” (đã được viết chính giữa trang vở) Ví dụ: Con lợn thứ nhất nặng118kg. Con lợn thứ hai nặng kém con lợn thứ nhất 7kg. Hỏi: a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu ki-lô-gam? b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu ki-lô-gam? (Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2) Bài giải: a) Con lợn thứ hai nặng là: 118 – 7 = 111(kg) b) Cả hai con lợn nặng là: 118 + 111 = 229 (kg) Đáp số: a) 111 kg b) 229 kg 2.5.4. Kiểm tra cách giải bài toán. Việc kiểm tra nhằm phân tích xem cách giải phép tính và kết quả là đúng hay sai, có các hình thức thực hiện sau: + Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số đã tìm được trong quá trình giải với các số đã cho. + Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải nó. + Giải bài toán bằng cách khác rồi so sánh đáp số. + Xét tính hợp lý của đáp số. Việc kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Thực tế quan sát học sinh tiểu học khi giải toán tôi nhận thấy rằng: Các em thường coi bài toán đã được giải xong khi có đáp số. Nhưng khi giáo viên hỏi: "Em có chắc chắn đó là kết quả đúng không?" thì đa số các em đã lúng túng và chưa trả lời được ngay. Kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là các việc như kiểm tra về: + Cách sử dụng dụng dữ kiện + Lựa chọn và thực hiện phép tính + Cách trình bày bài giải (diễn đạt câu văn , thứ tự thực hiện) + Kiểm tra lại phương pháp và thủ thuật đã sử dụng khi giải toán. Đây là bước không thể thiếu trong quá trình giải toán ở tiểu học, điều đó giúp các em đảm bảo được tính chính xác cao khi giải toán và đặc biệt giúp phát triển ở các em năng lực sáng tạo, tính tích cực, chủ động và độc lập gải toán. Đối 13/16
  15. với học sinh giỏi việc tìm ra nhiều cách giải toán khác nhau cho cùng một bài toán đó là biện pháp tốt nhất để tìm ra cách giải và đáp số của bài toán đó. Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho sự phát triển tư duy linh hoạt, năng động sáng tạo của học sinh. Ngược lại, việc giúp học sinh biết cách đánh giá cách giải là một động lực thúc đẩy sự cố gắng tìm ra cách giải khác nhau để giải bài toán. Đối với học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên nên lựa chọn những cách kiểm tra đơn giản nhất để không làm suy nghĩ của các em bị rối V. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Tôi đã nghiên cứu, thực hiện đề tài trong vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp 2D. Trong quá trình thực hiện, tôi nhận thấy các biện pháp rất thực tế và có hiệu quả. Thông qua quá trình phát triển từng bước và thường xuyên, liên tục một số biện pháp nêu trên và kết quả thu được là : - Học sinh càng ngày càng yêu thích môn toán, có hứng thú học toán hơn, cảm thấy môn học bớt khó khăn và không dễ chán như trước đây nữa. - Bước đầu học sinh có kĩ năng tóm tắt bài toán không còn nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính đúng, nắm được yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. - Các em tiếp thu bài một cách chủ động, ghi nhớ được bài. Kết quả khảo nghiệm trong học kì I như sau: Sĩ số Kết quả giải toán có lời văn Điểm môn Ghi chú HS Biết tóm Đặt câu Lựa chọn Ghi Toán cuối tắt bài lời giải đúng đúng kì I (từ TB phù hợp phù hợp phép tính đáp số trở lên) 41 65% 85% 70% 50% 90% 14/16
  16. PHẦN III - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận : Qua các tiết giảng dạy, dự giờ, nghiên cứu tài liệu, tôi nhận thấy rằng giải toán có lời văn là sự tích hợp các kiến thức số học, đại lượng và hình học. Trong các bài toán đơn có liên quan chặt chẽ với các kiến thức về số học, đại lượng. Một điều chúng ta nhận thấy rất rõ nữa là nội dung các bài toán gắn liền với thực tế; học sinh giải toán có lời văn chính là giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Bởi vậy, rèn cho học sinh nắm vững quy trình giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, đòi hỏi nhiều công sức. Do đó, người giáo viên không được nóng vội, phải kiên trì lặp lại các biện pháp để tạo được thói quen cho các em. Theo tôi, giáo viên cần chủ động xây dựng biện pháp giảng dạy mạch kiến thức này. Bắt đầu từ việc tập cho học sinh trả lời những câu hỏi về số học thành câu ; tiếp đến là kiên trì vận dụng các biện pháp để giúp tất cả học sinh có thể tự đọc, hiểu và giải được bài toán có lời văn . Để vận dụng tốt các biện pháp trên, giáo viên cần nắm vững hệ thống các bài toán có lời văn trong chương trình. Trong các giờ học cần quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu kém. Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh, chưa vội cho học sinh tiếp cận với các bài toán nâng cao khi các em chưa giải thông thạo các bài toán trong sách giáo khoa. Giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào quá trình dạy học bằng việc tổ chức, hướng dẫn cho các em tự hoạt động, thao tác với các phương tiện trực quan để chiếm lĩnh kiến thức dưới các hình thức học tập khác nhau. Quan trọng hơn cả trong dạy học giải toán có lời văn là hình thành cho học sinh phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. II. Kiến nghị : Giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi trau dồi kinh nghiệm để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Giáo viên phải mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức. Sau mỗi bài dạy giáo viên cần tự đánh giá hiệu quả của biện pháp đã vận dụng và có những điều chỉnh (nếu chưa phù hợp) kịp thời ở bài sau. XÁC NHẬN CỦA Hà Nội, ngày 13 tháng 3 năm 2019 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Người viết Trần An Thanh 15/16
  17. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Trần Diên Hiển (2004), Thực hành giải toán tiểu học (T1), NXBGD. - Đỗ Trung Hiệu (2005), Những đề toán hay của toán tuổi thơ, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 1, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 2, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 3, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 4, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 5, NXBGD. - Nguyễn Danh Ninh – Vũ Dương Thụy (2003), Toán nâng cao lớp 2, NXBGD. - Đỗ Đình Hoan (2010), SGV Toán 2, NXBGD. - Tài liệu khác : Toán tuổi thơ, Nhi đồng chăm học, Tạp chí giáo dục 16/16