Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài “viết đoạn văn ngắn theo chủ đề”
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài “viết đoạn văn ngắn theo chủ đề”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot.docx
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài “viết đoạn văn ngắn theo chủ đề”
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT DẠNG BÀI “VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN THEO CHỦ ĐỀ” Môn: Tiếng Việt Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Trần Thị Kim Mỹ Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trung Tự Chức vụ: Giáo viên cơ bản NĂM HỌC 2018 – 2019
- MỤC LỤC PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ 2 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3 4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3 PHẦN II - NỘI DUNG 4 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 7 I. CƠ SỞ THỰC TIỄN 7 II. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH DẠNG KIỂU BÀI VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN THEO CHỦ ĐỀ Ở LỚP 3 7 III. QUY TRÌNH DẠY KIỂU BÀI VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN THEO CHỦ ĐỀ Ở LỚP 3 8 IV. THỰC TRẠNG 8 CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP 11 I.BIỆN PHÁP 1: CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS 11 II. BIỆN PHÁP 2: THIẾT KẾ DẠY HỌC PHÙ HỢP 16 III. BIỆN PHAP 3. RÈN KĨ NĂNG VIẾT CÂU 16 IV. BIỆN PHÁP 4: TÍCH HỢP, LỒNG GHÉP 23 V. BIỆN PHÁP 5: RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIỆNG 26 VI. BIỆN PHÁP 6: SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI 28 VII. BIỆN PHÁP 7:VẬN DỤNG LINH HOẠT ĐÁNH GIÁ THEO THÔNG TƯ 22 28 CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ 29 PHẦN III. KẾT LUẬN 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 35 1
- PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tiếng Việt là môn học trung tâm, môn học công cụ chiếm thời lượng lớn nhất trong thời gian học tập ở trường của học sinh tiểu học. Một trong những phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học là phân môn Tập làm văn (TLV). TLV là môn học phản ánh trung thực và tổng thể quá trình, kết quả học tập Tiếng Việt ở Tiểu học của học sinh, nó rèn cho học sinh hai kĩ năng cơ bản đó là “Nói” và “Viết”. Với tầm quan trọng như vậy ngay từ lớp 2, học sinh đã được học riêng phân môn TLV. Hiện nay các nhà trường rất chú trọng đến phân môn này. Học xong chương trình Tập làm văn ở Tiểu học các em sẽ có một lượng kiến thức cơ bản để có thể tiếp tục học lên các lớp trên. Hơn thế nữa kiến thức về TLV nếu các em lĩnh hội tốt thì đó sẽ là cái vốn vô giá trong cuộc đời các em. Là nền tảng căn bản vững chắc giúp các em bước vào cuộc sống dễ dàng, phục vụ cho giao tiếp hàng ngày được thuận lợi có hiệu quả. Qua kinh nghiệm bản thân tôi nhận thấy, dạy tốt phân môn TLV không chỉ “thức tỉnh” ở học sinh về nhận thức mà còn làm rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy những năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũngnhư bồi dưỡng tâm hồn cao đẹp cho các em. Đó chính là cái đích mà bất cứ người giáo viên nào cũng mong có được. Thực tế ở những lớp tôi dạy, học sinh rất ngại học TLV, thậm trí có em còn “sợ” học TLV. Các em đều cho rằng học TLV là khó, khó nhất trong các môn học.Vì vậy các em ít cố gắng hoặc có cố gắng nhưng chưa bền bỉ nên không thu được hiệu quả cao.Và hiện nay đa số các em học sinh lớp 3 đều rất ngại học phân môn TLV vì không biết nói gì? viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các phân môn khác. Với tầm quan trọng của phân môn Tiếng Việt nói chung và TLV lớp 3 nói riêng. Tôi luôn trăn trở làm thế nào để dạy tốt và giúp học sinh học tốt phân môn TLV? Chính những trăn trở đó đã giúp tôi đến với đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài “Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề ’’ ở lớp 3. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Chương trình Tiếng Việt góp phần nâng cao kĩ năng giao tiếp cho HS. HS học theo chương trình mới năng động hơn, khả năng giao tiếp tốt hơn, mạnh dạn hơn nhiều so với học sinh học theo chương trình sách giáo khoa cũ. Đề tài này nhằm giúp giáo viên: 2
- -Tìm ra một quy trình giảng dạy hiệu quả nhất, phù hợp với trình độ nhận thức của các em. -Tìm hiểu và làm sáng tỏ những nguyên nhân còn tồn tại trong quá trình dạy TLV ở lớp 3. -Đề xuất một số giải pháp để khắc phục hạn chế trong việc dạy TLV ở lớp 3. 3. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn để dạy tốt dạng bài Viết một đoạn văn ngắn theo chủ đề ở phân môn TLV. Đề xuất những biện pháp giúp HS biết cách làm TLV dạng bài “Viết một đoạn văn ngắn theo chủ đề”. Dạy học thực nghiệm vấn đề cần nghiên cứu. 4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giúp HS làm tốt dạng bài “Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề” ở lớp 3. Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy TLVở lớp 3 trong trường tiểu học. 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu về việc dạy học TLV ở lớp 3 dạng bài “Viết một đoạn văn ngắn theo chủ đề”. Đề tài được tiến hành ở trường Tiểu học Trung Tự với giáo viên nhà trường và học sinh khối 3. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Các tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: SGK, chương trình, sách giáo viên Phương pháp điều tra quan sát: Thông qua dự giờ, tìm hiểu thực trạng dạy và học qua tiết TLV ở trường tiểu học. Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với giáo viên trong tổ khối về những thuận lợi, khó khăn khi dạy tiết TLV. Trao đổi với học sinh về vướng mắc của học sinh khi học TLV. Tham khảo sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp. Phương pháp thực nghiệm: Soạn giáo án, đặc biết là giáo án điện tử để dạy thực nghiệm trên lớp. Phương pháp thống kê toán học: Đánh giá, đối chiều kết quả trước và sau khi thực hiện các biện pháp 3
- PHẦN II - NỘI DUNG CHƯƠNG 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Vị trí, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học: 1. Vị trí Tập làm văn được hiểu là tập sản sinh, tạo lập ngôn bản. Dạy TLV là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp HS tạo lập, sản sinh ra ngôn bản. Phân môn TLVcó vai trò, vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần các kĩ năng sử dụng tiếng Việt đã được hình thành, xây dựng ở các phân môn khác. Nhờ quá trình vận dụng các kĩ năng để tạo lập, sản sinh văn bản trong dạy học TLV, Tiếng Việt trở thành một công cụ sinh động trong quá trình học tập và giao tiếp của học sinh tiểu học. 2. Nhiệm vụ Nhiệm vụ cơ bản của phân môn TLV là giúp HS tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời (dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài). Nhiệm vụ cụ thể của phân môn TLV bao gồm: - Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận, góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản. - Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó. - Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả. - Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài TLV (kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết, tình tiết trong văn kể chuyện ). - Ngoài ra, phân môn TLV cũng góp phần rèn luyện tư duy (tư duy hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp - phân loại - lựa chọn) và hình thành nhân cách (lịch sự, khuôn mẫu trong giao tiếp; bồi dưỡng tình cảm đẹp và vốn sống ) cho học sinh tiểu học. II. Các kĩ năng làm văn Để dạy tốt dạng bài Viết đoạn văn theo chủ đề, chúng ta cần thực hiện sao cho học sinh có thể thực hiện liên hoàn các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Cụ thể: - Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài của bài viết (kĩ năng tìm hiểu đề). - Kĩ năng tìm ý (thu thập tài liệu cho bài viết). 4
- - Kĩ năng lập dàn ý (hệ thống hóa, lựa chọn tài liệu). - Kĩ năng diễn đạt (dùng từ đặt câu). - Kĩ năng viết đoạn, viết bài theo các phong cách khác nhau (miêu tả, kể chuyện, viết thư ). - Kĩ năng hoàn thiện bài viết (phát hiện và sửa chữa lỗi). 1. Tính chất của phân môn TLV 1.1. Phân môn TLV là phân môn tổng hợp bởi lẽ: Sử dụng toàn bộ kĩ năng do nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt đảm nhiệm và góp phần phát triển và hoàn thiện chúng: Để dạy TLV cho HS, giáo viên không những cần quan tâm rèn luyện các kĩ năng làm bài mà còn quan tâm đến việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, mở rộng và nâng cao vốn hiểu biết, vốn sống cho các em. Chỉ có như vậy bài văn của các em mới trở nên sinh động và có hồn. 1.2 Tính chất sáng tạo của phân môn TLV Đổi mới phương pháp dạy học thực chất là tìm cách chuyển hóa những thành tựu mới nhất của khoa học kĩ thuật và khoa học giáo dục vào thực tiễn dạy hoc. Một vấn đề như vậy đòi hỏi sự đổi mới đồng bộ từ nội dung, phương pháp đến phương tiện, hình thức tổ chức dạy học. Trong dạy TLV, giáo viên không chỉ quan tâm đến sản phẩm là bài nói, bài viết của học sinh mà còn phải quan tâm đến quá trình làm ra bài nói, bài viết đó. Điều đó có nghĩa là giáo viên cần hướng dẫn HS các thao tác để các em dựa trên các hiểu biết của mình để tự tìm ra kiến thức. Mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước đề bài. Do đó có thể nói trong việc học làm văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi”của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy TLV là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình. 2. Nguyên tắc và phương pháp dạy học 2.1. Nguyên tắc Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt là những quan điểm cơ bản được coi là tiền đề để xác định nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động dạy -học Tiếng Việt trong nhà trường: - Nguyên tắc phát triển tư duy. - Nguyên tắc giao tiếp (nguyên tắc phát triển lời nói). - Nguyên tắc chú ý tâm lý và trình độ Tiếng Việt vốn có của HS. - Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả 2 hình thức lời nói, dạng viết, dạng nói. - Nguyên tắc tích hợp. 5
- -Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và hình thức dạy học tích cực. 2.2. Các phương pháp trong dạy học Tiếng Việt * Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Phân tích ngôn ngữ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phát hiện ra các hiện tượng ngôn ngữ nhất định từ các ngữ liệu để phát hiện ra những đặc trưng của chúng. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng trong tất cả các phân phân môn của môn học Tiếng Việt ở Tiểu học. * Phương pháp luyện tập theo mẫu: Đây là phương pháp mà GV tổ chức cho HS hoạt động tạo ra các đơn vị lời nói bằng cách mô phỏng lời thầy (cô) giáo hoặc SGK * Phương pháp thực hành giao tiếp: Nội dung của phương pháp này là đặt HS vào các tình huống giao tiếp cụ thể để rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Tình huống giao tiếp có thể là tình huống giao tiếp cụ thể là tình huống thực hành ở lớp hoặc những tình huống được tạo ra từ các nhiệm vụ học tập trong SGK. Kết luận: Như vậy, qua việc phân tích cơ sở lí luận của việc dạy TLV ở trường Tiểu học nói chung, dạy TLV ở lớp 3 nói riêng, ta thấy phân môn TLV có vị trí hết sức quan trọng. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện làm văn cho HS. Qua đó, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách học sinh. Việc dạy học TLV phải bám sát vào nguyên tắc và phương pháp dạy Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, tạo nên sắc thái riêng trong mỗi bài văn của các em. 6
- CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ THỰC TIỄN I. Cơ sở thực tiễn: Trong chương trình TLV lớp 2 các em đã được làm quen với dạng bài viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu liên quan đến những nội dung mang tính gần gũi với các em trong cuộc sống hàng ngày như:“Viết về một người thân của em”hay “Viết về em và trường em”. Nhưng lên lớp 3 thì bài tập đã yêu cầu cao hơn, không chỉ về số lượng câu mà nội dung viết yêu cầu cao hơn rất nhiều, đòi hỏi các em phải có vốn hiểu biết rộng về cuộc sống xung quanh, như bài “ Viết về một trận thi đấu thể thao”. Vì vậy trong quá trình làm bài các em còn rất lúng túng, nhiều em làm bài chưa đạt yêu cầu. Nhiều em dùng từ sai, viết chưa thành câu. Có những bài đủ số câu nhưng không đủ ý. Có em diễn đạt còn lủng củng, sắp xếp ý còn lộn xộn, câu chưa thoát ý. Qua thực trạng trên tôi thấy mình cần phải có phương pháp giảng dạy như thế nào để học sinh ham thích, hứng thú học TLV. Hơn nữa, trong phân phối chương trình hiện nay, một tuần chỉ có 1 tiết TLV, với thời gian như vậy đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra một hướng đi ngắn nhưng đem lại hiệu quả cao. Kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề ở lớp 3 có nội dung gắn với một chủ điểm nhất định và có liên quan đến nội dung, kiến thức của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt như phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Như vậy để dạy tốt kiểu bài này, người giáo viên cần nắm chắc nội dung và phương pháp tổ chức quá trình dạy học TLV; phân tích kĩ nội dung chương trình sách giáo khoa để từ đó có những biện pháp tác động hiệu quả đến quá trình dạy kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề trong phân môn TLV lớp 3. II. Nội dung chương trình dạy kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề ở lớp 3: Trong chương trình Tiểu học mới, môn Tiếng Việt được dạy theo các chủ điểm. Mỗi chủ điểm thường được học trong 2 tuần. Trong mỗi một chủ điểm, các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, TLV, đều có nội dung xoay quanh một chủ điểm. Bài “Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề” thường được sắp xếp vào tuần cuối cùng của mỗi chủ điểm. Ví dụ: Tuần 5- tuần 6 chủ điểm: Tới trường, thì tiết TLV của Tuần 6 có bài viết đoạn văn Kể về buổi đầu đi học. Trong mỗi tiết TLV thường có 2 bài tập. Bài tập số 1 là bài làm miệng, bài tập số 2 là bài làm viết. Ví dụ Tiết TLV của tuần 22 Bài 1: Hãy kể về một người lao động trí óc mà em biết. 7
- Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn ( từ 5 đến 7 câu). Nội dung của các bài viết bám sát theo các chủ điểm, nói về các lĩnh vực khác nhau như: kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao - văn nghệ, . Nội dung các bài tập Viết đoạn văn theo chủ đề cụ thể như sau: - Viết về buổi đầu em đi học (Chủ điểm Tới trường - Tuần 6) - Viết về người hàng xóm (Chủ điểm Cộng đồng - Tuần 8) - Viết về cảnh đẹp đất nước (Chủ điểm Bắc - Trung - Nam - Tuần 12) - Viết về tổ em (Chủ điểm Anh em một nhà - Tuần 15) - Viết về người lao động trí óc (Chủ điểm Sáng tạo - Tuần 22) - Viết về buổi biểu diễn nghệ thuật (Chủ điểm Nghệ thuật - Tuần 23) - Viết về lễ hội (Chủ điểm Lễ hội - Tuần 26) - Viết về một trận thi đấu thể thao (Chủ điểm Thể thao - Tuần 29) - Viết về bảo vệ môi trường (Chủ điểm Ngôi nhà chung - Tuần 32) Trong số các bài viết trên, chỉ có bài viết về một trận thi đấu thể thao được dạy trong một tiết. Các bài còn lại chỉ được dạy trong nửa tiết. Bài làm viết thường được thực hiện sau bài làm miệng. Dạng bài này rèn cho học sinh kĩ năng viết, kĩ năng tạo lập văn bản. Viết đúng đề tài, đúng ngữ pháp, đúng chính tả. III. Quy trình dạy kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề: Bài viết đoạn văn ngắn theo chủ đề là bài làm viết, được thực hiện sau bài làm miệng nên phần gợi ý nội dung bài viết nằm trong bài tập 1 – bài làm miệng.Vì vậy giáo viên cần tiến hành giảng dạy theo các bước sau: - Học sinh đọc đề bài. - Xác định yêu cầu của bài viết. - Hướng dẫn viết bài. - Học sinh viết bài. - Chữa, nhận xét, rút kinh nghiệm bài viết của học sinh. Tuy quy trình dạy học là như vậy nhưng nếu người giáo viên không linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với trình độ học sinh của mình thì hiệu quả giờ dạy sẽ không cao. IV. Thực trạng việc dạy và học kiểu bài “Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề” ở lớp 3: 1. Thuận lợi: 8
- - Học sinh được quan tâm, chăm sóc chu đáo của gia đình. Có đủ sách vở và đồ dung học tập. Nhận được nhiều sự quan tâm của các lực lượng giáo dục ở địa phương. - Học sinh được học theo mô hình học 2 buổi/ngày nên có nhiều điều kiện để giáo viên quan tâm đến từng đối tượng học sinh. - Cở sở vật chất được đầu tư xây dựng mới nên rất khang trang, hiện đại. - Giáo viên nhiệt tình, luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ dạy học, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. 2. Khó khăn: Qua việc phân tích nội dung chương trình sách giáo khoa ở trên, ta thấy phân môn TLV lớp 3 hiện nay có sự đổi mới cả vệ nội dung lẫn phương pháp. Việc dạy học theo quan điểm đổi mới không chỉ rèn kĩ năng nói mà còn chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng viết, kĩ năng tạo lập văn bản cho học sinh. Điều đó giúp cho học sinh biết vận dụng tổng hợp các kiến thức trong các phân môn của môn Tiếng Việt để trình bày được một văn bản đúng chủ đề, đúng ngữ pháp, đúng chính tả. Cũng chính vì sự đổi mới đó khiến nhiều giáo viên còn lúng túng trong giảng dạy. Đặc biệt với bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề đòi hỏi cao ở cả giáo viên và học sinh, khiến không ít giáo viên gặp khó khăn khi dạy. Khó vì yêu cầu của một số bài viết về những lĩnh vực chưa thật sự gần gũi quen thuộc với học sinh như: Viết về một trận thi đấu thể thao; Viết về một lễ hội . Thời gian chỉ có một nửa tiết để học sinh nhớ và viết, trình bày thành một đoạn văn. Như vậy với học sinh lớp 3 không phải em nào cũng làm được. Qua tham khảo và dự giờ một số giáo viên dạy lớp 3, tôi thấy dạy kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề, phần lớn các giáo viên đều bám sát vào sách giáo khoa và câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để soạn bài và hướng dẫn học sinh làm bài mà chưa đi sâu khám phá, tìm tòi các kiến thức, cung cấp thêm cho học sinh vốn từ hoặc sử dụng thêm tranh ảnh tư liệu để dẫn dắt học sinh đến với bài tập một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Giáo viên còn nói nhiều, nói cho cả học sinh, dẫn đến học sinh làm theo mẫu, chỉ nhớ lại lời của cô để viết bài mà không có sự sáng tạo của chính mình. Giáo viên chưa biết khai thác triệt để các kiến thức qua các phân môn khác của môn Tiếng việt để bổ trợ cho phân môn TLV. Các em viết văn trên cơ sở trả lời các câu hỏi. Câu văn ngắn gọn, khô khan, dùng từ thiếu chính xác, câu còn chưa rõ ý. Một bài văn nhưng thực tế không khác gì việc liệt kê các ý cho đủ nội dung. Kĩ năng đặt câu còn rất hạn chế và gần như các em chưa vận dụng 2 nghệ thuật đã học là so sánh và nhân hóa vào việc viết văn. Có em hết giờ vẫn chỉ viết được hai, ba câu. Trong bài Viết về người lao động trí 9
- óc có em viết “ HS như nuốt từng lời của cô Hoa”. Hay bài Viết về trận thi đấu thể thao có em viết “Một cầu thủ của đội 3A đã đá bóng vào gôn của đội 3B nhưng thủ môn của đội 3B đã túm được bóng”. Qua khảo sát, tôi thấy phần lớn các em chưa biết dùng từ đặt câu. Bài viết chưa đủ ý, diễn đạt còn lủng củng. Có bài đủ ý nhưng câu văn còn khô khan, không có hình ảnh, sử dụng dấu câu tự do. HS có kĩ năng Học sinh có kĩ năng HS chưa có kĩ năng viết văn tốt viết văn viết văn 4/42 = 9,5% 12/42 = 28,6% 26/42 = 61,9% 10
- CHƯƠNG 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT DẠNG BÀI “VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN THEO CHỦ ĐỀ” Xuất phát từ thực tế trên và rút kinh nghiệm giảng dạy kiểu bài “Viết đoạn văn theo chủ đề” của các giáo viên lớp 3, tôi đã tiến hành nghiên cứu và tìm ra phương pháp dạy học thích hợp, giúp các em học sinh mạnh dạn chiếm lĩnh tri thức mới và thoải mái, tự tin khi học TLV viết. Sau đây, tôi xin trình bày một số biện pháp mà tôi đã thực hiện góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy kiểu bài Viết đoạn văn ngắn theo chủ đề trong phân môn TLV lớp 3. I. Biện pháp 1: Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 1. Chuẩn bị của giáo viên: Để dạy tốt phân môn TLV nói chung và kiểu bài Viết đoạn văn theo chủ đề ở lớp 3 nói riêng, tôi đã nghiên cứu kĩ nội dung từng bài tập trong sách giáo khoa và mục đích yêu cầu của sách giáo viên để nắm được những kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau mỗi bài học, trọng tâm của mỗi đề bài là gì? Ngoài ra tôi còn tìm hiểu thêm những nội dung kiến thức thuộc các chủ điểm. - Chủ điểm Sáng tạo có bài Viết về người lao động trí óc: Tôi đọc thêm tài liệu, tìm hiểu thêm về các ngành nghề lao động bằng trí óc và tôi tập trung tìm hiểu kĩ công việc của mỗi ngành nghề đó. Ví dụ như một kĩ sư điện tử công việc chính của họ là gì? Thành quả lao động của họ là gì? Kĩ sư xây dựng họ làm những gì? Địa điểm nơi làm việc? -Chủ điểm thể thao: Tôi cũng tìm hiểu thêm về môn bóng đá, bóng chuyền, . tìm hiểu về số lượng cầu thủ trong một trận đấu, hình thức thi đấu, rồi các thuật ngữ dùng trong thi đấu thể thao; tinh thần, niềm tự hào của các vận động viên. -Chủ điểm về lễ hội: Tôi đã sưu tầm thêm tranh ảnh về quang cảnh lễ hội, các hoạt động diễn ra trong lễ hội và phóng to cho HS quan sát. Khi quan sát tranh học sinh sẽ dễ nói, dễ viết và có hứng thú học tập hơn. 11
- Ảnh Hội đua thuyền Ảnh Lễ hội Chọi Trâu 12
- Ảnh Múa rồng Ảnh Lễ hội Đền Hùng 13
- Ảnh Đánh đu Để chuẩn bị cho bài Viết về cảnh đẹp đất nước tuần 12, tôi khuyến khích học sinh sưu tầm thêm các tranh ảnh về cảnh đẹp của đất nước chứ không chỉ dựa vào một bức tranh của sách giáo khoa. Các em có thể chọn cho mình một cảnh đẹp theo ý thích để kể. Bài viết của các em sẽ phong phú và giàu cảm xúc. Giáo viên tìm hiểu về cảnh đẹp: vùng miền, đặc sản, thời tiết khí hậu, du lịch, thăm quan, di tích lịch sử Ảnh Cảnh biển Nha Trang 14
- Ảnh Chùa Một Cột Ảnh Cảnh sông Hương 15
- Ảnh Cảnh Hồ Gươm Việc nắm vững kiến thức của giáo viên còn giúp cho các em giải đáp những thắc mắc và tự tin hơn khi làm bài. Vì có một số lĩnh vực mà không phải học sinh nào cũng biết, cũng quan tâm. 2. Sự chuẩn bị bài của học sinh: Với thời gian là 40 phút, một học sinh lớp 3 phải hoàn thành một bài văn miệng và trình bày một bài văn viết như vậy sẽ rất khó để có thể làm hay, làm đầy đủ và tốt được. Vì vậy, việc chuẩn bị bài ở nhà là rất cần thiết. Trước hôm có tiết TLV, tôi yêu cầu các em đọc đầu bài sau đó tôi gợi ý sơ qua về yêu cầu của bài. Với đề bài Viết về buổi đầu đi học, các em có thể nhớ lại những kỉ niệm của buổi đầu đi học và ghi chép ra giấy nháp những ý chính. Hay viết về một người hàng xóm, nếu không biết tuổi của người đó các em có thể hỏi bố, mẹ để phục vụ cho việc viết bài của các em. Việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp sẽ giúp các em tự tin hơn và tạo tâm thế cho các em học tốt và tiết kiệm được thời gian. II. Biện pháp 2: Thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn 1. Thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, thể hiện rõ phân hoá đối tượng học sinh: Theo tôi, việc thiết kế bài dạy là một công việc quan trọng và cần thiết của người giáo viên. Để xây dựng được phương án giảng dạy tốt và hiệu quả, tôi luôn chú ý đến một số vấn đề sau đây: 16
- - Việc thiết kế bài dạy không nên phụ tuộc hoàn toàn vào SGV mà cần xuất phát từ tình hình thực tiễn của lớp để có những điều chỉnh, thay đổi phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. - Không nên sao chép y nguyên theo SGV hoặc dùng lại hoàn toàn các thiết kế bài dạy của những năm trước bởi thiết kế bài dạy của những năm trước dù tốt nhưng không thể phù hợp với đối tượng học sinh năm nay. SGV chỉ đưa ra những hướng dẫn chung. Việc dạy học có hiệu quả xuất phát từ đối tượng cụ thể, tức là học sinh từ lớp đang dạy. Vì vậy, tôi luôn có thiết kế bài dạy mới hoặc dùng giáo án của năm học trước có chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp. Ví dụ, dạy bài “Kể về trận thi đấu thể thao”, năm học trước tôi gợi ý hướng dẫn học sinh có thể kể về các trận thi đấu kéo co mà lớp đã tham gia. Năm học này tôi lại gợi ý học sinh kể về trận thi đấu bóng đá mà lớp đã tham gia ở trường 2. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn: Mặc dù ở lớp 3 chưa yêu cầu HS viết thành một bài văn có đầy đủ ba phần: mở bài - thân bài - kết bài. Tuy nhiên, ở mỗi bài viết tôi vẫn hướng dẫn học sinh viết theo một trình tự chung như sau: - Viết câu mở đầu (Giới thiệu đối tượng cần viết). - Phát triển đoạn văn (Kể về đối tượng). - Câu kết thúc (Tình cảm, suy nghĩ, mong ước của mình về đối tượng). Khi viết theo một trình tự quy định như thế này, các em sẽ dễ dàng viết được một đoạn văn hoàn chỉnh, đủ ý và đó cũng là nền tảng để các em viết văn tốt ở các lớp học cao hơn. 3. Tích lũy và phát triển vốn từ cho học sinh: Để giúp học sinh tích lũy và mở rộng vốn từ, giáo viên chú trọng khi dạy các tiết Luyện từ và câu, tăng cường tìm từ, mở rộng vốn từ theo chủ điểm, thi tìm nhanh, tìm đúng các từ theo chủ điểm. Bài tập 1: Tìm những từ chỉ: + Tên một số lễ hội. + Tên các hoạt động lễ hội. Bài tập 2: Tìm từ chỉ: + Tên các môn thể thao. + Hoạt động thể thao bắt đầu bằng tiếng “ đấu”. Tôi tổ chức cho học sinh làm bài dưới dạng trò chơi. Chia học sinh ra thành các đội chơi, cùng làm một yêu cầu trong một thời gian nhất định. Hình thức làm bài dưới dạng trò chơi, giúp các em cảm thấy thoải mái vui vẻ khi học bài và tạo ấn tượng để các em ghi nhớ từ. 17
- Sau nghiên cứu tôi đã mạnh dạn phân loại và đưa ra một số dạng bài tập để giúp các em tích lũy vốn từ, hiểu được nghĩa của từ và vận dụng vào viết văn: - Dạng 1: Tìm từ a) Em hãy tìm 15 từ thuộc chủ điểm trường học. Trong các từ em vừa tìm, có từ chỉ sự vật không? Đó là những từ nào? b) Em hãy tìm 10 từ chỉ hoạt động chơi thể thao, sau đó viết 3 câu theo mẫu. Ai làm gì? ( Mỗi câu có sử dụng một từ vừa tìm). c) Em hãy tìm 10 từ chỉ đặc điểm tính nết của người, sau đó đặt 5 câu theo mẫu Ai thế nào? - Dạng 2: Gạch chân những từ chỉ hoạt động thường diễn ra trong lễ hội. a. Dâng hương b. Ném còn c. Đánh đu d. Phẫu thuật e. Đua mô tô g. Tưởng niệm h. Rước i. Đua ô tô k. Múa hát - Dạng 3: Em hãy cho biết những câu sau thuộc mẫu câu gì? Hãy gạch chân dưới các từ chỉ hoạt động có trong câu. a) Cha làm cho con một chiếc chong chóng bằng lá dừa. b) Chị đưa tôi đến trường từ rất sớm. c) Chị tập thể dục ngoài sân. Việc bồi dưỡng vốn sống, tích lũy vốn từ để giúp các em học văn, làm văn. Học văn, làm văn cũng như con người, bước vào cuộc đời. Mỗi con người bước vào cuộc đời đều phải chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết. Vì vậy người giáo viên phải giúp HS tích lũy vốn từ trong suốt quá trình học chứ không phải ngày một, ngày hai. III. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng viết câu; Hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý; Sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn 1. Rèn kĩ năng viết câu: Để giúp học sinh nói, viết thành câu, tôi tăng cường sử dụng biện pháp phân tích ngôn ngữ. Dựa vào các mẫu câu đã học trong phân môn Luyện từ và câu “Ai là gì?”, “Ai làm gì?” hay “Ai thế nào?”, tôi hướng dẫn các em nhận biết: Câu văn em nói và viết ra đã đủ hai bộ phận chưa? Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai? (hoặc cái gì? con gì?). Bộ phận trả lời cho câu hỏi là gì? làm gì? như thế nào? Trên cơ sở đó giúp các em biết viết dấu chấm khi hết câu. Ngoài ra tôi còn xây dựng hệ thống bài tập để giúp học sinh biết viết những câu văn hay thể hiện được cảm xúc. 18
- - Em hãy viết 3 câu, trong mỗi câu có sử dụng ít nhất một dấu phẩy. - Em hãy viết 3 câu hỏi. - Em hãy viết câu có dùng dấu chấm than. - Em hãy viết 3 câu, trong mỗi câu có dùng dấu hai chấm. - Điền dấu ngoặc kép thích hợp trong mỗi câu sau: + Mẹ nói Hôm qua con được điểm tốt, mẹ rất vui. + Tôi trả lời Có, tôi có đi. Sau khi HS làm bài xong, khi chữa bài tôi sẽ hướng dẫn học sinh nhận biết : * Cuối câu yêu cầu người nghe phải trả lời, ta đặt dấu chấm hỏi. * Cuối câu bộc lộ cảm xúc của người nói, ta đặt dấu chấm than. *Để dẫn lời nói trực tiếp của nhân vật hoặc của người nào đó ta phải đặt lời nói đó trong dấu ngoặc kép. Điều này sẽ giúp các em viết được những bài văn phong phú về nội dung và mạnh dạn thể hiện được cảm xúc trong bài viết. - Em hãy viết 2 câu trong mỗi câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Bằng gì? Gạch chân dưới bộ phận đó. - Em hãy viết 2 câu trong mỗi câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Để làm gì? Gạch chân dưới bộ phận đó. - Em hãy viết 3 câu trong mỗi câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Khi nào? gạch chân dưới bộ phận đó. - Em hãy viết 2 câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi Ở đâu? Gạch chân dưới bộ phận đó. Dạng bài tập trên giúp HS viết câu có đủ bộ phận, biết dùng dấu phẩy để ngăn cách các bộ phận chính với bộ phận phụ trong câu. Giáo viên cũng đưa thêm những câu văn viết chưa có cảm xúc để học sinh thấy được sự khác biệt. -Em hãy viết lại câu văn sau thành câu có cảm xúc: + Em chạy. + Sửa: Em chạy như bay. 2. Hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý và sơ đồ tư duy: * Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi ý cho bài văn miệng. Mỗi một bài làm miệng thường có những gợi ý. Bài Kể về một người lao động trí óc mà em biết trong sách giáo khoa có 3 gợi ý: a) Người đó là ai, làm nghề gì? b) Người đó hàng ngày làm những việc gì? 19
- c) Người đó làm việc như thế nào? Với 3 gợi ý này mà yêu cầu một HS lớp 3 viết thành một đoạn văn từ 7 đến 10 câu thì sẽ rất khó, đặc biệt là với những HS có mức học trung bình. Vì vậy, tôi đã chẻ nhỏ câu hỏi và mạnh dạn bổ sung thêm một số gợi ý. Ví dụ: a) Người đó tên là gì? Có quan hệ với em như thế nào? b) Người đó làm nghề gì? Ở đâu? c) Công việc hàng ngày của người đó là gì? d) Người đó làm việc như thế nào? e) Công việc của người đó mang lại ích lợi gì? g) Em ước mơ sau này sẽ làm gì? Bài Kể về buổi đầu đi học - Tuần 6 không có câu hỏi gợi ý. HS khá giỏi có thể làm được bài, HS trung bình sẽ rất khó để làm tốt được vì buổi đầu đi học của các em đã cách đây 2 năm rồi. Để HS làm được bài này, đầu tiên tôi giúp HS nhớ lại buổi đầu đi học của mình bằng các gợi ý như sau: a) Buổi đầu tiên em đi học là buổi sáng hay buổi chiều? Ai đưa em đi học? b) Cảnh vật 2 bên đường như thế nào? Có như mọi ngày không? c) Quang cảnh ở cổng trường ra sao? Sân trường có đông người không? d) Các bạn HS và các thầy cô giáo như thế nào? Điều gì làm em nhớ nhất? e) Cảm xúc của em lúc đó thế nào? Hay bài Viết đoạn văn giới thiệu về tổ em Ở bài này cũng không có câu hỏi gợi ý nên tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài tập này như sau: a) Tổ em có bao nhiêu bạn? b) Mỗi bạn trong tổ em có những nét gì đáng yêu? c)Tình cảm của các bạn trong tổ đối với nhau như thế nào? d)Tình cảm của em với các bạn trong tổ như thế nào? * Sử dụng sơ đồ tư duy Việc xây dựng hệ thống các câu hỏi gợi ý kết hợp sơ đồ tư duy sẽ giúp các em cảm thấy dễ nói, dễ viết hơn và viết được đầy đủ nội dung. Không những thế còn giúp cho học sinh sắp xếp các ý theo trình tự hợp lý để có một bài văn có bố cục hoàn chỉnh. 20
- Ví dụ, bài Kể về người hàng xóm – tuần 8 -Người hàng xóm tên là gì? Bao nhiêu tuổi? Mở đầu: Giới thiệu -Người ấy làm nghề gì? Ở đâu? -Người ấy đi làm vào thời gian nào? Làm những công việc gì? Kể về người Phát triển đoạn văn: -Người ấy làm việc với thái độ ra sao? Công việc đó có hàng xóm Kể về người đó lợi ích gì cho mọi người? -Quan hệ của người ấy đối với gia đình em thế nào? -Gia đình em thường làm những việc gì tốt cho người ấy? Kết thúc: Cảm nghĩ của em -Tình cảm của em với người ấy như thế nào? * Tạo cảm hứng cho HS viết bài Để gợi cho học sinh có cảm hứng viết bài tôi mạnh dạn thêm một số từ ngữ vào mỗi đề văn, tạo cho các em có cách viết cho tự nhiên và nhẹ nhàng: + Gia đình em có một người hàng xóm rất thân thiết, em hãy kể về người hàng xóm đó cho các bạn cùng nghe. + Mỗi thành viên trong tổ em có một cá tính riêng nhưng em rất yêu các bạn, hãy kể về tổ mình cho các bạn cùng nghe. + Chúng ta đang đứng trước một nguy cơ ô nhiễm môi trường toàn cầu, mỗi người cùng góp một tay để giảm bớt nguy cơ đó. Em hãy kể lại một việc làm tốt của em góp phần bảo vệ môi trường. Trước khi vào làm bài văn miệng tôi định hướng cho các em lựa chọn đối tượng kể, đối tượng tả theo nhiều cách khác nhau vì có nhiều HS rất băn khoăn trong việc lựa chọn. Với đề bài: Kể về người hàng xóm. Rất nhiều em chọn kể về những người trí thức như giáo viên, bác sĩ, chỉ có một hai em kể về người hàng xóm làm nghề tự do như bán bún, bán hoa, thợ mộc Tôi đã nhấn mạnh với các em rằng, một bài văn hay là một bài văn viết có tình cảm. Em viết về một nhà khoa học hay một người làm nghề tự do đều như vậy. Em phải có tình cảm, phải yêu quý người 21
- mình viết thì viết mới hay được. Chính vì vậy mới dẫn đến có những bài viết rất khô khan khiến người đọc không thấy, không cảm nhận được sự chân thực. Việc lựa chọn đúng đối tượng gần gũi, có tình cảm với mình, cái mình yêu thích còn giúp các em bộc lộ được hết cảm xúc chân thực của mình trong bài viết. Tôi còn sưu tầm các bài văn hay của học sinh năm trước, đọc cho các em nghe để khích lệ các em cố gắng. 3. Sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn: Ở lớp 3, các em đã được học hai biện pháp nghệ thuật đó là: Nhân hóa và So sánh. Đây là một yêu cầu cao khi viết văn nhưng không phải là không làm được. Để có bài văn hay thì không thể thiếu biện pháp nghệ thuật. Chính vì vậy tôi đã soạn ra một số bài tập, giúp các viết được các câu văn có hình ảnh và giàu cảm xúc. Bước đầu tôi yêu cầu các em nhận biết câu văn có hình ảnh. Ví dụ: Bài 1. Trong các câu sau, câu nào có hình ảnh nhân hóa: + Mây trắng mải mê vui chơi cùng bạn bè. + Mây trắng bồng bềnh như uốn lượn. + Chú voi như một nghệ sĩ đang biểu diễn trên sân khấu. + Cây tùng đứng im như người lính canh. Sau khi HS nhận biết câu văn có hình ảnh, tôi tiếp tục đưa ra các bài tập với yêu cầu cao hơn một chút : Bài 2. Hãy viết lại các câu văn sau cho hay hơn bằng cách thêm các từ ngữ. - Các em học sinh mặc quần áo đủ màu sắc sặc sỡ đang nô đùa trên sân trường. + Các em học sinh mặc quần áo sặc sỡ, đang nô đùa trên sân trường tựa như một đàn bướm xinh tung tăng bay lượn. - Bông hoa hồng xinh đẹp. + Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười thì thầm với gió. Bài 3. Đặt câu có sử dụng biện pháp nhân hóa để nói về các con vật. Các em đặt được một số câu như sau: + Chú Khỉ khoe tài đu dây giỏi. + Mấy chú chó con nũng nịu, dụi mõm vào bụng mẹ đòi bú. Điều này sẽ giúp các em viết được những câu văn có hình ảnh và bài văn trở nên sinh động hơn như bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật: Xiếc thú, Bài 4.Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để thành những câu văn có sử dụng nghệ thuật nhân hóa và so sánh . - Ông mặt trời + Ông mặt trời đỏ rực như một quả bóng lửa. 22
- + Ông mặt trời đang toả những ánh nắng chói chang như thiêu như đốt xuống vạn vật. Những đám mây trắng + Những đám mây trắng đang nhởn nhơ rong chơi trên bầu trời. + Những đám mây trắng như bông đang bồng bềnh trôi. - Ông trăng + Ông trăng tròn như một quả bóng. + Ông trăng tròn, to như cái đĩa. Từ việc rèn cho các em kĩ năng viết các câu văn có hình ảnh, dần dần các em sẽ biết vận dụng biện pháp nghệ thuật vào việc viết văn để có những câu văn gợi cảm, gợi tả . Sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn sẽ làm cho bài văn sinh động, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.Việc rèn cho các em cách viết văn hay ngay từ bậc Tiểu học nhằm nuôi dưỡng những tâm hồn yêu văn, để giúp các em học văn tốt hơn ở các lớp trên. IV. Biện pháp 4: Chú trọng tích hợp, lồng ghép khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3: Khi dạy phân môn TLV giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết để dạy TLV. Bài TLV chính là tổng hợp kiến thức của tất cả các phân môn trong môn Tiếng việt, từ việc dùng từ, viết câu, viết đúng chính tả, viết đúng cỡ chữ, diễn đạt lưu loát đúng nội dung. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc sách giáo khoa. Các bài học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn. Vì vậy người giáo viên phải biết tận dụng và khai thác triệt để các kiến thức trong chủ điểm để bổ trợ cho phân môn TLV. * Ví dụ: Chủ điểm Sáng tạo dạy trong 2 tuần, tuần 21 và tuần 22, gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả Trong quá trình rèn đọc khai thác nội dung bài đọc, cung cấp cho học sinh vốn từ, những câu văn có hình ảnh về chủ điểm sáng tạo . - Cụ thể khi dạy bài Tập đọc: Nhà bác học và bà cụ, giáo viên khai thác bài theo hệ thống các câu hỏi: + Hãy nói những điều em biết về Ê- đi- xơn. + Câu chuyện giữa Ê- đi- xơn và bà cụ xảy ra lúc nào? + Vì sao bà cụ mong có chiếc xe không cần ngưạ kéo? + Nhờ đâu mà mong ước của bà cụ được thực hiện? + Theo em, nhà khoa học đem lại lợi ích gì cho con người? 23
- Qua các câu trả lời của HS giáo viên định hướng cho các em biết các nhà khoa học họ phải dùng trí óc của mình để nghiên cứu, phát minh những công trình khoa học vĩ đại nhằm phục vụ cuộc sống của con người. Như nhà bác học Ê- đi- xơn đã chế ra đèn điện, chế tạo ra xe điện để tiện lợi hơn trong việc đi lại của con người. Qua đó giáo dục các em biết kính trọng và yêu quý những thành quả của các nhà khoa học. Từ đó có mục đích phấn đấu. Những điều này giúp các em làm bài viết Kể về người lao động trí óc. - Câu chuyện “ Nâng niu từng hạt giống” nói về nhà bác học Lương Định Của. Qua câu chuyện giáo viên hướng dẫn cho các em thấy được công việc của một nhà bác học về lĩnh vực nông nghiệp. - Hay bài tập chính tả tuần 21- Chủ điểm sáng tạo. Bài tập (2): a) Điền vào chỗ trống tr hay ch? í thức là những người uyên làm các công việc í óc như dạy học, ữa bệnh, ế tạo máy móc, nghiên cứu khoa học. Cùng với những người lao động ân tay như công nhân, nông dân, đội ngũ í thức đang đem hết í tuệ và sức lực của mình xây dựng non sông gấm vóc của chúng ta. b) Đặt trên chữ in đậm dấu hỏi hay dấu ngã? Trên ruộng đồng, trong nhà máy, trên lớp học hay trong bệnh viện, ơ đâu, ta cung gặp nhưng trí thức đang lao động quên mình. Các ki sư nông nghiệp nghiên cứu giống lúa mới , ki thuật trồng trọt, chăn nuôi mới. Các ki sư cơ khí cùng công nhân san xuất máy móc, ô tô. Các thầy giáo, cô giáo dạy ta thành người có ích cho xa hội. Các bác si chưa bệnh cho dân. Bài chính tả trên không chỉ rèn cho học sinh biết viết đúng các chữ có âm đầu tr hoặc ch và điền đúng những chữ có dấu hỏi hay dấu ngã, mà còn cung cấp rất nhiều kiến thức về những người lao động trí óc. Vì vậy với bài tập này sau khi nêu yêu cầu và cho học sinh làm, khi chữa bài, tôi yêu cầu học sinh đọc bài đã điền. Tôi hướng dẫn HS phân biệt giữa người lao động trí óc và người lao động chân tay; hiểu được ích lợi, ý nghĩa công việc cũng như sự cống hiến cho xã hội của người lao động trí óc. Để từ đó giúp các em biết lựa chọn đối tượng để kể trong bài Viết về người lao động trí óc. Ở bài 2b, sau khi học sinh điền dấu hỏi và dấu ngã, tôi cho một học sinh đọc bài làm và tôi hỏi: - Các kĩ sư nông nghiệp họ làm gì? (Nghiên cứu giống lúa, kĩ thuật trồng trọt .). - Các kĩ sư cơ khí họ làm gì? (sản xuất máy móc, ) - Công việc của bác sĩ là gì? (chữa bệnh cho bệnh nhân, ) - Những người lao động trí óc họ làm việc như thế nào? (quên mình). 24
- Qua tiết chính tả, học sinh không chỉ biết viết đúng chính tả mà còn có thêm hiểu biết về công việc của những người lao động trí óc để phục vụ cho việc viết bài văn. Nhưng nếu giáo viên chỉ dừng lại ở việc chữa bài, học sinh điền đúng hay sai thì chưa hiểu đúng ý đồ của sách giáo khoa, chưa khai thác triệt để, để giúp học sinh lĩnh hội đầy đủ kiến thức, hiệu quả học tập sẽ bị hạn chế. - Bài Luyện từ và câu. Tuần 22 - Chủ điểm Sáng tạo Bài 1: Dựa vào những bài tập đọc, chính tả đã học ở các tuần 21, 22 em hãy tìm các từ ngữ: a) Chỉ trí thức M: Bác sĩ, . b) Chỉ hoạt động của trí thức: M: Nghiên cứu. Học sinh sẽ tìm được: - Từ chỉ trí thức: Bác sĩ, giáo viên, kiến trúc sư, giảng viên, kĩ sư, . - Chỉ hoạt động trí thức: Nghiên cứu, phát minh, chế tạo máy móc, chế thuốc Sau bài tập này, tôi nhấn mạnh cho học sinh biết trí thức chính là những người lao động trí óc, công việc của họ rất vất vả và thành quả lao động của họ mang lại rất nhiều ích lợi cho xã hội. Điều đó sẽ giúp học sinh viết được các ý về ích lợi công việc của những người lao động trí óc trong bài văn của mình. Tiết Luyện từ và câu này không chỉ giúp HS hiểu biết thêm các công việc của những người trí thức mà còn giúp cho HS tích luỹ thêm vốn từ để viết văn về chủ điểm Sáng tạo. * Chủ điểm Cộng đồng Có bài Tập đọc: Các em nhỏ và cụ già Tuần 8. Giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau: + Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại? + Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? + Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ? (Vì các bạn là những trẻ ngoan. Vì các bạn là người nhân hậu. Vì các bạn muốn quan tâm giúp đỡ ông cụ.) + Ông cụ gặp chuyện gì buồn? (Bà cụ bị ốm nặng phải nằm bệnh viện, khó mà qua khỏi). + Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn? (Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ. Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện. Ông cảm thấy ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.) Qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan tâm, chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp các 25
- em khi viết đoạn văn Kể về người thân, hay người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt đi những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc logic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân, tương ái giữa mọi người trong cộng đồng. Cũng trong chủ điểm này có bài chính tả Viết đoạn 4 trong bài Các em nhỏ và cụ già: Cụ ngừng lại, rồi nghẹn ngào nói tiếp: - Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông nằm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện. Ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được, nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Đám trẻ lặng đi. Các em nhìn cụ già đầy thương cảm. Một lát sau, xe buýt đến. Giúp ông cụ lên xe rồi, các em còn đứng nhìn theo mãi mới ra về. Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt buồn phiền tăng cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. HS vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn của các em. Tương tự ở môn Tập viết - Tuần 8. Các em được luyện viết câu ứng dụng: Khôn ngoan đối đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau Ý nghĩa câu tục ngữ khuyên: Anh em trong nhà phải đoàn kết thương yêu nhau. Xuất phát từ phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng; HS biết “Kể về người hàng xóm mà em quý mến” (Tập làm văn - Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc đều nhằm mục đích giúp HS có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn TLV lớp 3. V. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng làm văn miệng Một tiết TLV nói, viết theo chủ đề thường có 2 bài: Bài 1- Làm miệng. Bài 2 - Làm viết 26
- Để làm tốt bài văn viết tôi chú trọng và hướng dẫn kĩ bài làm miệng. Ví dụ tiết TLV- tuần 8 Bài 1: Kể về người hàng xóm mà em quý mến. Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn từ 5 đến 7 câu. Sau khi học sinh đọc yêu cầu của bài 1 và gợi ý, tôi thường hướng dẫn học sinh nói theo từng phần. Mỗi phần tôi cho nhiều em được nói và các em có thể nói theo nhiều cách khác nhau. Nếu em nào nói chưa tốt một ý nào đó, tôi cho học sinh khác nhận xét và chỉnh sửa ngay cho chính học sinh đó. Với mỗi gợi ý của bài tập 1 có nhiều cách nói khác nhau. a) Người hàng xóm mà em quý mến tên là gì? bao nhiêu tuổi? (Người hàng xóm mà em quý mến là bác Tâm, năm nay Bác đã ngoài 40 tuổi. Bác Lan ở kề bên nhà em là người hàng xóm thân thiết nhất của gia đình em. Năm nay Bác 60 tuổi rồi. Ở cạnh nhà em có chú Sơn, năm nay chú 32 tuổi. Chú chơi rất thân với bố em.) b) Người đó làm nghề gì? (Bác Tâm làm công nhân ở Công ty Môi trường đô thị. Tuy tuổi đã cao nhưng Bác Lan vẫn còn khỏe và tham gia những công việc đồng áng mà bác đã làm mấy chục năm nay. Chú Sơn là một kĩ sư điện của một công ty chuyên sản xuất đồ điện gia dụng.) c) Tình cảm của gia đình em đối với người hàng xóm như thế nào? (Mọi người trong gia đình em đều quý bác Tâm. Thỉnh thoảng rảnh rỗi mẹ cho em sang nhà bác Tâm chơi để trò chuyện với bác. Cả nhà em đều thương bác Lan vì các con của Bác đều công tác xa, ít khi về được. Những lúc nhà bác Lan có việc gì khó, gia đình em đều sẵn sàng giúp đỡ. Những hôm chú Sơn phải đi công tác, bố em thường sang nhà chú ngủ để trông nhà hộ vì chú ở một mình.) d) Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em như thế nào? (Bác Tâm cũng rất quan tâm đến gia đình em. Bác thường hỏi thăm sức khỏe của ông bà em ở quê, hỏi han về việc học hành của em và khuyên em nhiều điều tốt. Bác Lan quan tâm đến gia đình em bằng những tình cảm rất mộc mạc, chân thành. Có lần mẹ em đi làm về bị cảm nắng, Bác vội đi lấy gừng để đánh gió cho mẹ em, rồi giúp em nấu cháo cho mẹ ăn. Mỗi khi nhà em bị hỏng điện chú sẵn sàng sang sửa giúp.) Sau khi các em được luyện nói theo từng phần, tôi mời hai, ba học sinh luyện nói cả bài. Sau mỗi một học sinh trình bày miệng, tôi lại cho học sinh khác nhận xét về nội dung, ý, dùng từ, bạn nói thành câu chưa? Việc chỉnh sửa khi làm bài miệng sẽ hạn chế được những sai sót khi làm viết. Nhờ việc rèn kĩ năng làm văn miệng, các em được nghe nhiều bạn nói, với cùng một gợi ý nhưng lại có 27
- nhiều cách nói khác nhau. Các em được học hỏi lẫn nhau, tự so sánh câu của mình với câu của các bạn, để từ đó biết lựa chọn những cái hay, cái đẹp cho mình. Điều này sẽ giúp các em viết được những bàiviết phong phú mà không dập theo khuôn mẫu nào. Các em đã nói thành câu thì viết cũng thành câu, diễn đạt lưu loát thì bài văn sẽ trôi chảy hơn. VI. Biện pháp 6: Sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại: Hiện nay, hầu hết các trường học ở Hà Nội đều được trang bị các thiết bị dạy học hiện đại như máy tính xách tay, máy chiếu Projecter, máy chiếu vật thể, bảng tương tác Vì vậy giáo viên nên sử dụng triệt để các thiết bị này. Người giáo viên cần nắm vững cách thiết kế bài giảng điện tử trên các phần mềm PowerPoint, Violet Việc tra thông tin và tìm kiếm các hình ảnh đẹp, các clip hay trên mạng Internet rất dễ dàng. Điều này sẽ giúp học sinh dễ dàng cảm nhận được nội dung bài học và viết văn có cảm xúc hơn. Giáo viên có thể sử dụng phần mềm Violet, phần mềm bảng tương tác để thiết kế các bài tập dạng điền từ, chọn ý, sắp xếp ý Học sinh có thể trực tiếp làm bài, chữa bài trên phần mềm và cả lớp đều quan sát được. VII. Biện pháp 7:Vận dụng linh hoạt đánh giá theo thông tư 22: Thời gian 40 phút một tiết thì thời gian dành cho việc chữa bài sẽ rất ít. Chính vì vậy, sau khi HS viết xong bài tôi sẽ thu một vài bài của các em học tốt - học khá - học trung bình hoặc yếu để nhận xét, đánh giá. Dùng máy Projecter để chiếu bài của HS. Yêu cầu các em nhận xét về nội dung, câu, từ, cách diễn đạt. Giáo viên gạch chân từ dùng sai, hay những câu chưa rõ ý. Nếu dùng từ sai, học sinh khác có thể bổ sung thay thế bằng từ khác cho phù hợp hơn. Nếu em nào viết câu chưa rõ ý, giáo viên có thể gọi chính học sinh đó sửa luôn. Ví dụ giáo viên có thể hỏi học sinh: - Câu em viết đã đủ hai bộ phận chưa? - Còn thiếu bộ phận nào? - Em có thể sửa lại để cô và các bạn biết rõ em viết điều gì không? Việc chiếu bài còn giúp học sinh quan sát các bài viết trình bày đẹp, đọc các bài viết hay. Nếu em nào làm bài tốt, viết được các câu văn có hình ảnh, dùng biện pháp nghệ thuật thì GV phải biểu dương kịp thời và đọc cho cả lớp nghe, đánh giá sự cố gắng tiến bộ vượt bậc của em đó để động viên và khích lệ để các em khác phấn đấu. Đối với bài làm có ý hay, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn hay hơn. 28
- CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ Sau một thời gian áp dụng các biện pháp dạy học theo hướng tích cực tôi đã nêu trên, tôi thấy kết quả học TLV viết của lớp mình đạt được thật đáng mừng. Tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: HS có kĩ năng Học sinh có kĩ năng HS chưa có kĩ năng viết văn tốt viết văn viết văn 27/42 = 64,3% 14/42 = 33,3% 01/42 = 2,4% Qua bảng thống kê kết quả, tôi thấy lớp 3C là lớp tôi thực nghiệm đã có tiến bộ rõ rệt. Hầu hết học sinh viết đúng nội dung của chủ đề yêu cầu. Các em sử dụng từ ngữ rất chính xác, viết thành câu và đã biết dùng các dấu câu đã học vào bài viết. Có những bài văn viết rất tự nhiên và chân thực. Các em không còn ngại học, sợ học môn TLV nữa. Kết quả học tập tiến bộ rõ rệt nên các em càng phấn khởi, hăng say học tập. Không những đạt kết quả tốt trong môn TLV mà các em còn giao tiếp tốt trong cuộc sống hàng ngày. Bản thân tôi cùng cảm thấy thật sự nhẹ nhàng khi dạy các em viết bài TLV, tôi không phải nhắc nhở thúc giục các em như trước nữa, mà các em đã chủ động viết bài bằng vốn kiến thức của mình. Tôi xin dẫn một số bài văn của học sinh lớp tôi. 29
- PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Kết luận Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, muốn có kỹ năng viết văn cần cả một quá trình rèn luyện lâu dài nhưng nó cũng phụ thuộc vào vai trò điều khiển, dẫn dắt của người thầy. Từ kết quả giảng dạy lớp mình, tôi thấy rằng để nâng cao chất lượng dạy TLV viết ở lớp 3, đặc biệt là kiểu bài viết đoạn văn theo chủ đề cần chú ý một số vấn đề sau: - Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, chuẩn bị những kiến thức cần thiết theo chủ đề để chủ động được nội dung bài dạy. - Nắm vững đặc trưng của bài làm viết, từ đó có định hướng rèn cho học sinh kĩ năng viết văn bản. - Dạy theo quan điểm tích hợp lồng ghép tất cả các phân môn trong môn Tiếng Việt và khai thác triệt để kiến thức ở mỗi bài học trong chủ điểm để bổ trợ cho phân môn TLV. - Chú trọng việc cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ, vốn sống để viết văn. - Định hướng cho học sinh viết chân thực những gì mình thích, mình yêu mến. - Rèn kĩ năng làm văn miệng tốt trước khi làm bài viết. - Rèn kĩ năng viết câu có sử dụng biện pháp nghệ thuật. - Xây dựng hệ thống câu hỏi dễ hiểu, dễ nói, dễ viết cho học sinh. - Thường xuyên quan sát, trao đổi ý kiến với học sinh để thu thập các thông tin ngược từ học sinh để điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp . - Khuyến khích và tổ chức cho các em thường xuyên đọc sách báo để mở mang kiến thức, rèn khả năng nói, viết. - Trao đổi với các em những câu chuyện hay, cuốn sách hay các em đã đọc để phát triển ở các em khả năng cảm thụ. - Cần động viên khích lệ kịp thời những tiến bộ của học sinh. - Giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường học hỏi, nghiên cứu tài liệu để nâng cao hiểu biết cho bản thân. II. Khuyến nghị - Tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề để giáo viên được học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn. - Giáo viên tích cực sử dụng đồ dùng dạy học trong giảng dạy (được trang bị cũng như tự làm). - Nghiên cứu kĩ bài dạy, vận dụng và phối hợp linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. 33
- Trên đây là một vài kinh nghiệm, biện pháp mà tôi đã sử dụng để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn lớp 3 dạng bài Viết đoạn văn theo chủ đề. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các cấp lãnh đạo, các bạn bè đồng nghiệp để tôi có được một cách dạy đạt hiệu quả cao nhất cho học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn XÁC NHẬN Hà Nội, ngày 09 tháng 3 năm 2019 CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Người viết Trần Thị Kim Mỹ 34
- TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách nghiên cứu. 1. Hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học – Chủ biên PTS Đỗ Đình Hoan. 2. Thực hành TLV – Trần Mạnh Hưởng. 3. Vui học Tiếng Việt – Trần Mạnh Hưởng. 4. Bồi dưỡng văn tiểu học – Nguyễn Quốc Siêu 5. Đánh giá kết quả học Tiếng Việt lớp 3 – Nguyễn Trại – Lê Thị Thu Huyền – Đỗ Thị Bích Liên. II. Tạp chí: 1. Chăm học. 2. Thế giới trong ta. 3. Dạy và học ngày nay. 4. Giáo dục thời đại. 5. Giáo dục tiểu học. III. Sách giáo khoa: 1. Sách Tiếng Việt. 2. Vở bài tập Tiếng Việt. 3. Sách giáo viên. 4. Kiểm tra Tiếng Việt lớp 3. 5. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng môn Toán – Tiếng Việt lớp 3. 35