Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1

doc 141 trang Thủy Hạnh 04/12/2023 1920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_phuong_phap_day_hoc_tieng_viet_o_tieu_hoc_1.doc

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1

  1. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1 Học phần PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC 1 PHẦN THỨ I: GIỚI THIỆU HỌC PHẦN Học phần “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1” được biên soạn theo “Chương trình khung giáo dục đại học ngành Giáo dục tiểu trình độ đại học” ban hành theo Quyết định số 39/2006/QĐ-BGDĐT ngày 2/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quyết định số 627/QĐ-ĐHSPĐT ngày 10/9/2007 của Hiệu trưởng Trường ĐHSP Đồng Tháp. Chương trình học phần gồm hai phần: Phần 1 “Những vấn đề chung về phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học” có các chương: Chương 1: Bộ môn Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. Chương 2: Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học Chương 3: Chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học Chương 4: Các nguyên tắc và phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học Phần 2 “Phương pháp dạy học các phân môn” gồm các chương: Chương 5: Phương pháp dạy Học vần. Chương 6: Phương pháp dạy Tập viết. Chương 7: Phương pháp dạy học Luyện từ và câu. PHẦN THỨ II: MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1.Kiến thức: Sinh viên phải nắm được các hiểu biết về : - Đối tượng, nhiệm vụ của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học - Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. 1
  2. - Đặc điểm học sinh tiểu học trong quá trình chiếm lĩnh Tiếng Việt ở trường tiểu học. - Mục tiêu, nội dung chương trình, nguyên tắc, phương pháp dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học. 2. Kĩ năng Sinh viên có các kĩ năng : - Kĩ năng tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của học sinh tiểu học. - Kĩ năng phân tích mục tiêu, tìm hiểu nội dung, chương trình, sách giáo khoa (SGK) dạy Tiếng Việt ở tiểu học. - Kĩ năng thiết kế bài Tiếng Việt, tổ chức các hoạt động dạy học Tiếng Việt - Kĩ năng phân tích đánh giá thực tế dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. 3. Thái độ - Bồi dưỡng cho sinh viên tình cảm yêu quý tiếng mẹ đẻ. - Có ý thức rèn luyện năng lực tiếng mẹ đẻ cho học sinh. - Yêu mến đồng cảm với học sinh tiểu học. PHẦN THỨ III: KẾ HOẠCH DẠY HỌC Học phần Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 ở tiểu học. 1. Số đơn vị học trình: 03 2. Trình độ sinh viên: Năm thứ II hệ ĐHGD Tiểu học 3. Phân bố thời gian: - Số tiết lí thuyết: 30 (giảng dạy: 18; SV tự nghiên cứu: 12) - Số tiết thực hành: 15 (TH: 12; SVTNC soạn bài: 03) 4. Điều kiện tiên quyết: Đã học Tiếng Việt 1, 2. 5. Nhiệm vụ của sinh viên: - Dự lớp - Tự nghiên cứu và báo cáo kết quả tự nghiên cứu 2
  3. - Thực hiện các hoạt động thực hành: soạn giáo án (có giáo án điện tử ở các phân môn), xem dạy, tập dạy. 6. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên: - Tiểu luận tự nghiên cứu, soạn giáo án, thực hành tập dạy: 40% - Thi kết thúc học phần (vấn đáp): 60% 7. Thang điểm: 10 8. Hướng dẫn tự nghiên cứu: Sinh viên tự nghiên cứu các vấn đề sau, viết báo cáo kết quả tự nghiên cứu, theo một trong các đề tài sau: - Sự gắn kết giữa mục tiêu dạy học Tiếng Việt ở tiểu học và việc biên soạn nội dung SGK Tiếng Việt tiểu học. - Đặc điểm của chương trình Tiếng Việt tiểu học. - Đặc điểm sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học. - Đặc điểm nội dung hệ thống chủ đề của sách Tiếng Việt 1. - Đặc điểm nội dung hệ thống chủ đề của sách Tiếng Việt 2. - Đặc điểm nội dung hệ thống chủ đề của sách Tiếng Việt 3. - Đặc điểm nội dung hệ thống chủ đề của sách Tiếng Việt 4. - Đặc điểm nội dung hệ thống chủ đề của sách Tiếng Việt 5 - Vấn đề tích hợp trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. - Nội dung và biện pháp dạy học vần lớp 1. - Nội dung và biện pháp dạy tập viết. - Nội dung và biện pháp dạy “Hệ thống hoá - mở rộng vốn từ” ở lớp 2 (hoặc 3, 4, 5). - Dạy lí thuyết về từ ngữ ở lớp 4 hoặc 5. - Dạy lí thuyết về ngữ pháp ở lớp 4 hoặc 5. 9. Nội dung chi tiết học phần (Giảng dạy trên lớp, không kể tự nghiên cứu) PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PPDH TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC: Chương 1: Bộ môn PPDH Tiếng Việt ở Tiểu học (2 LT) 1. PPDH Tiếng Việt là gì ? 3
  4. 2. Đối tượng và nhiệm vụ của PPDH Tiếng Việt ở Tiểu học. 3. Đặc điểm của PPDH Tiếng Việt ở Tiểu học (SV tự nghiên cứu) 4. Thực hành: Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trẻ em Tiểu học tại Trường Tiểu học Thực hành Sư phạm và phân tích kết quả tìm hiểu được). Chương II: Cơ sở khoa học của PPDH dạy học Tiếng Việt (2 LT) 1. Triết học mác - Lênin là cơ sở phương pháp luận của PPDH Tiếng Việt. 2. Cơ sở ngôn ngữ, văn học. 3. Cơ sở Giáo dục học. 4. Cơ sở Tâm lí học và Tâm lí ngữ học. Chương III: Môn học Tiếng Việt ở trường Tiểu học (2LT + 2 XMN) 1. Vai trò của Tiếng Việt ở Tiểu học 2. Tiếng Việt trong nhà trường Việt Nam từ trước đến nay. 3. Mục Tiêu môn Tiếng Việt ở Tiểu học. 4. Chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học 5. Sách giáo khoa Tiếng Việt ở Tiểu học 6. Xêmina :Đề tài " Đặc điểm chương trình và SGK Tiếng Việt Tiểu học". Chương IV: Nguyên tắc, PPDH Tiếng Việt ở Tiểu học (3 LT + 1 TH) 1. Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt. 2. Các PPDH Tiếng Việt. 2.1. Khái niệm 2.2. Vấn đề phương pháp dạy học trong lí luận dạy học 2.3. Các PPDH Tiếng Việt thường sử dụng ở Tiểu học 2.4. Vấn đề đổi mới PP và các hình thức dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. 3. Thực hành: Xem băng ghi hình 01 tiết Tiếng Việt và phân tích việc vận dụng nguyên tắc và phương pháp đánh giá các tiết dạy. 4
  5. PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT Chương V: Phương pháp dạy học vần (3 LT + 3 TH) 1. Mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học vần 2. Cơ sở khoa học của dạy học vần 3. Chương trình và SGK dạy học vần 4. Tổ chức dạy các kiểu bài học vần. 5. Thực hành: a) Soạn giáo án các kiểu bài dạy học vần (bài tự chọn) b) Soạn 02 trò chơi áp dụng trong dạy học vần (thực hiện ngoài giờ lên lớp). c) Thực hành dạy học các bài dạy đã soạn. Chương VI: Phương pháp dạy tập viết (2 LT + 2 TH) 1. Mục tiêu, vị trí, nhiệm vụ dạy tập viết. 2. Cơ sở khoa học của dạy tập viết. 3. Chương trình, vở tập viết. 4. Tổ chức dạy giờ tập viết 5. Nội dung thực hành: a) Soạn các giáo án dạy tập viết lớp 1, 2, 3 (tự chọn bài) b) Thực hành dạy học tập viết các giáo án đã soạn. Chương VII : Phương pháp dạy học Luyện từ và Câu ($ LT + 4 TH) 1. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học Luyện từ và Câu 2. Chương trình và sách giáo khoa Luyện từ và Câu 3. Các nguyên tắc dạy học Luyện từ và Câu 4. Tổ chức dạy học Luyện từ và Câu 5. Thực hành: a) Xem băng ghi hình dạy học Luyện từ và câu lớp 2, 3, 4, 5. 5
  6. b) Thực hành soạn giáo án các bài dạy luyện từ và câu (bài tự chọn). c) Thực hành tập dạy các bài đã soạn. PHẦN THỨ IV: NỘI DUNG HỌC PHẦN PHẦN 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC Chương 1 BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC A.MỤC TIÊU 1 Kiến thức Sinh viên có được các hiểu biết về : - Phương pháp dạy học Tiếng Việt - Đối tượng của phương pháp dạy học Tiếng Việt, - Nhiệm vụ của phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học 2 Kĩ năng: Sinh viên có các kĩ năng: - Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của học sinh tiểu học. - Rèn kĩ năng phân tích, đánh giá thực tế dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học. B. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Sinh viên đọc tài liệu liên quan và trả lời các câu hỏi sau: 1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt là gì ? 2. Đối tượng của phương pháp dạy Tiếng Việt ở tiểu học ? 6
  7. 3. Các nhiệm vụ của phương pháp dạy Tiếng Việt ở tiểu học với tư cách là một ngành khoa học, với tư cách là một môn học ở trường sư phạm ? C. NỘI DUNG: 1.Phương pháp dạy học Tiếng Việt là gì? Để trả lời được câu hỏi phương pháp dạy học Tiếng Việt là gì, chúng ta cần định vị phương pháp dạy học Tiếng Việt trong hệ thống các khoa học sư phạm. Trong tiếng Việt thuật ngữ “phương pháp” được dùng với những nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Thứ nhất, “phương pháp” được dùng với nghĩa là “phương pháp luận”chỉ hệ thống, quan điểm, cách thức nghiên cứu của một khoa học nào đó. Ví dụ nói “phương pháp luận biện chứng mácxít là cơ sở của mọi khoa học”. Thứ hai, “phương pháp” được dùng với nghĩa là khoa học về phương pháp giảng dạy mà nhiều tài liệu gọi là “lí luận dạy học bộ môn; giáo học pháp bộ môn hoặc “phương pháp luận dạy học bộ môn”. Thứ ba, “phương pháp” được dùng với nghĩa hẹp hơn, chỉ cách thức tác động lẫn nhau giữa thầy và trò, dưới sự chỉ đạo của thầy hướng đến đạt mục đích học tập. Ở đây chúng ta đang dùng thuật ngữ “phương pháp”với nghĩa thứ hai. Với tư cách là một khoa học, phương pháp dạy học Tiếng Việt được xem là một bộ phận của khoa học giáo dục ( “khoa học sư phạm” hay “sư phạm học”) là một hệ thống lí thuyết dạy học Tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ và với tư cách là ngôn ngữ thứ hai. Phương pháp dạy học Tiếng Việt bao gồm việc dạy Tiếng Việt cho nhiều đối tượng khác nhau: dạy Tiếng Việt cho người bản ngữ, cho người dân tộc, dạy Tiếng Việt trước tuổi học. Cũng như nhiều ngành khoa học khác, phương pháp dạy học Tiếng Việt là một khoa học trước hết vì nó có đối tượng nghiên cứu cụ thể. Mặt khác phương pháp dạy học còn có nhiệm vụ nghiên cứu riêng, có cơ sở lý thuyết và thực tiễn. Đồng thời nó có các phương pháp nghiên cứu đặc thù. 2.Đối tượng của phương pháp dạy học Tiếng Việt 2.1 Nội dung dạy học Tiếng Việt: Nội dung dạy học Tiếng Việt là những tri thức về hệ thống Tiếng Việt mà GV truyền tải đến học sinh. Thông qua đó mà hình thành ở học sinh những kĩ năng về sử dụng Tiếng Việt. Theo Chương trình Tiểu học 2006 (CTTH - 2006), nội dung dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học coi trọng việc dạy tri thức Tiếng Việt gắn với việc rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt giúp HS nhận diện, phát hiện, hoàn thiện các tri thức Tiếng Việt; tri thức Tiếng Việt góp phần ý thức hóa kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Để thực hiện yêu cầu này, chương trình quy định hai mức độ học tri thức Tiếng Việt. Ở lớp 1,2,3, tri thức Tiếng Việt không có tiết học riêng. Các đơn vị tri thức quy định cho 3 lớp học này giúp giáo viên có cơ sở lí luận để dạy các kĩ năng cho học sinh, chưa yêu cầu học sinh phải học thành bài các khái niệm, quy tắc. Ngược lại, ở các lớp 4, 5 tri thức Tiếng Việt được dạy thành tiết học riêng sắp xếp thành hệ thống (mặc dù chỉ là tri thức sơ giản) và vẫn gắn với việc luyện tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. 7
  8. 2.2 Hoạt động dạy của thầy giáo Theo quan điểm dạy học hiện đại, thầy giáo là người điều khiển hoạt động học, hoạt động nhận thức của học sinh, sử dụng các phương tiện dạy học để tổ chức cho HS tiếp cận với các nội dung dạy học, bằng cách đó mà HS được phát triển và hình thành nhân cách. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, các điều kiện thiết bị dạy học hiện đại hơn, thầy giáo càng có điều kiện tổ chức cho HS tiếp cận nội dung dạy học một cách hứng thú, có hiệu quả cao. 2.3 Hoạt động học tập của học sinh Cũng theo quan điểm dạy học hiện đại, HS là chủ thể nhận thức, chủ động tiếp thu tri thức bằng việc phát huy vai trò tích cực của mình tự giác chiếm lĩnh nội dung dạy học để hình thành và phát triển nhân cách dưới sự điều khiển sư phạm của GV. Vì vậy, trong dạy học, thầy giáo phải sử dụng các biện pháp và hình thức linh hoạt để có thể phát huy được hết tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập. Hoạt động học của HS bao gồm những hoạt động cụ thể: Hoạt động chuẩn bị cho giờ học, hoạt động trong giờ học, tự học ở nhà, hoạt động ngoại khoá, . Hoạt động của HS được tiến hành dưới sự điều khiển của thầy. Hiệu quả hoạt động của trò là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, những phẩm chất đạo đức mà các em đạt được . Do đó, phương pháp dạy học Tiếng Việt không chỉ quan tâm đến hoạt động trực tiếp của HS mà còn lưu tâm đến kết quả của hoạt động đó . 3.Nhiệm vụ của phương pháp dạy học Tiếng Việt 3.1 Nhiệm vụ của PPDH Tiếng Việt với tư cách là một ngành khoa học 3.1.1 Xây dựng cơ sở phương pháp luận cho phương pháp dạy học Tiếng Việt. Xét trên bình diện lí luận dạy học, phương pháp dạy học Tiếng Việt là hệ thống những kiến thức về bản chất, cấu trúc, chức năng và quy luật cơ bản của sự chi phối sự vận hành của quá trình dạy học Tiếng Việt, nói cách khác, đó là học thuyết lí giải bản chất của quá trình dạy học Tiếng Việt . Ngoài ra , nó còn hệ thống những phương pháp nghiên cứu khoa học được vận dụng để chiếm lĩnh hệ thống kiến thức mới. Nhiệm vụ cụ thể của việc xây dựng cơ sở phương pháp luận của phương pháp dạy học Tiếng Việt bao gồm: a. Xác định đối tượng, vị trí của phương pháp dạy học Tiếng Việt trong hệ thống các khoa học, đặc biệt là khoa học giáo dục. b. Phát hiện ra bản chất của quá trình dạy học Tiếng Việt, cấu trúc chức năng, những quy luật chi phối sự vận hành của nó, từ đó đề ra những nguyên tắc cơ bản điều khiển tối ưu quá trình dạy học. Phương pháp dạy học Tiếng Việt không chỉ là cụ thể hoá những quan điểm giáo dục vào bộ môn cụ thể mà các tài liệu dạy học Tiếng Việt không thể tách rời lí luận dạy học, tâm lí học, ngôn ngữ học, Các ngành này không thể thay thế cho phần cơ sở riêng của phương pháp. c. Xây dựng, hoàn thiện và phát triển hệ thống khái niệm chuyên biệt của phương pháp dạy học Tiếng Việt, góp phần làm giàu khái niệm lí luận dạy học. 8
  9. d. Xây dựng hệ thống PPNC khoa học riêng cho phương pháp dạy học Tiếng Việt. Vận dụng những phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác vào lĩnh vực chuyên biệt của mình như thực nghiệm, thống kê, mô hình hoá, e. Xác lập các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc các vấn đề cơ bản của phương pháp dạy học Tiếng Việt sao cho việc giải quyết chúng sẽ thúc đẩy sự phát triển của bản thân khoa học này. 3.1.2 Xây dựng lí thuyết về môn học Tiếng Việt trong nhà trường a. Nghiên cứu xác định hệ thống mục tiêu của môn Tiếng Việt trong trường học “Dạy học để làm gì?”. Phương pháp dạy học Tiếng Việt phải xây dựng hệ thống tiêu chí nội dung và cách thức đánh giá kết quả dạy môn học mà sản phẩm của nó là “chuẩn trình độ tối thiểu môn Tiếng Việt”. b. Nghiên cứu việc xây dựng môn học Tiếng Việt trong nhà trường “Dạy học cái gì?”. Nội dung môn học Tiếng Việt phải thoả mãn ba yêu cầu sau: - Thoả mãn tối đa đơn đặt hàng của xã hội. - Phản ánh trung thành Việt ngữ hiện đại. - Phù hợp với đặc điểm tâm lí lĩnh hội của HS. c. Nghiên cứu những quy luật mối quan hệ giữa các kiến thức trong nội bộ môn Tiếng Việt. Ví dụ mối quan hệ giữa đọc, viết trong dạy học vần với tập đọc, chính tả d. Nghiên cứu quy luật mối quan hệ liên môn. Ví dụ mối quan hệ giữa dạy văn với dạy tiếng với dạy tự nhiên, xã hội, e. Nghiên cứu những lĩnh vực cụ thể khác của nội dung dạy học Tiếng Việt như: thực hành nghe, đọc, nói, viết; bài tập Tiếng Việt; giáo dục tư tưởng tình cảm trong giờ học Tiếng Việt. 3.1.3 Xây dựng lí thuyết về phương pháp dạy học môn học Tiếng Việt a. Xác định cách thức hoạt động cụ thể trong quá trình dạy học của thầy và trò. b. Xác định hình thức tổ chức dạy học như: giờ lên lớp, thảo luận nhóm, trò chơi đóng vai, tham quan c. Chỉ dẫn về các phương tiện dạy học như: phương tiện nghe nhìn, băng tiếng, băng hình, đèn chiếu Việc xây dựng lí thuyết về phương pháp dạy học Tiếng Việt nhằm nghiên cứu hoạt động của thầy và trò, các nhà phương pháp phải soạn thảo các nguyên tắc, các phương pháp, các biện pháp dạy học Tiếng Việt, xây dựng hệ thống bài tập, viết tài liệu hướng dẫn cho GV và HS. Các tài liệu này phải được trình bày hệ thống phương pháp xác định nhằm tổ chức hoạt động của thầy và trò. 9
  10. 2. Nhiệm vụ của bộ môn PPDH Tiếng Việt trong trường sư phạm 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản về dạy học môn Tiếng Việt cho SV như sau: a. Kiến thức đại cương về phương pháp dạy học Tiếng Việt: Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của phương pháp dạy học Tiếng Việt và quan hệ của nó với các ngành khoa học khác . b. Những kiến thức cụ thể về lập kế hoạch dạy học, chuẩn bị và tiến hành dạy từng bài học trên lớp. 2. Rèn luyện kĩ năng kĩ xảo về dạy học môn Tiếng Việt cho sinh viên: a. Kĩ năng phân tích mục tiêu, tìm hiểu chương trình, SGK và các tài liệu dạy Tiếng Việt ở tiểu học. b. Kĩ năng tìm hiểu trình độ và đặc điểm ngôn ngữ của HS tiểu học. c. Kĩ năng lập kế hoạch dạy học, thiết kế bài dạy. d. Kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học Tiếng Việt. e. Kĩ năng kiểm tra , đánh giá HS. g. Kĩ năng tổ chức các hoạt động ngoại khoá, bồi dưỡng HS giỏi, giúp đỡ HS kém; công tác chủ nhiệm, công tác Đội, h. Kĩ năng phân tích đánh giá thực tế dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. 3. Bồi dưỡng cho sinh viên tình cảm nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của người giáo viên dạy Tiếng Việt Bộ môn phương pháp dạy học Tiếng Việt trong trường sư phạm phải rèn luyện cho SV những hẩm chất đạo đức và những thói quen cần thiết của người GV như: yêu Tiếng Việt, có tính kiên trì, tính chính xác, khả năng đồng cảm với HS, . 10
  11. Chương 2 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC A.MỤC TIÊU 1. Kiến thức : Sinh viên phải nắm được các luận điểm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lê nin về bản chất của ngôn ngữ, cơ sở ngôn ngữ học, cơ sở giáo dục học, cơ sở tâm lí học và tâm lí ngôn ngữ học chi phối đến phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. 2. Kĩ năng : Dựa vào các cơ sở khoa học, rèn cho SV có kĩ năng phân tích đánh giá các phân môn Tiếng Việt dạy ở tiểu học B. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Trình bày cơ sở Triết học Mác - Lê nin chi phối việc dạy học Tiếng Việt. 2. Phân tích cơ sở ngôn ngữ học, văn học của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. 3. Phân tích nguyên tắc giáo dục học đã chi phối việc dạy học Tiếng Việt như thế nào? 4. Lấy ví dụ để làm rõ những hiểu biết về tâm lí học, tâm lí ngôn ngữ học đã chi phối việc dạy học Tiếng Việt như thế nào? Thực hành: Dựa vào các cơ sở khoa học, hãy phân tích đánh giá việc dạy học Tiếng Việt (chương trình, SGK một phân môn, một bài tập Tiếng Việt hoặc một tình huống dạy học, ) C. NỘI DUNG 1.Cơ sở triết học Mác – Lênin Triết học Mác – Lênin là cơ sở phương pháp luận của phương pháp dạy học Tiếng Việt, nó quyết định phương hướng chung của phương pháp dạy học Tiếng việt. Nó giúp chúng ta hiểu được đối tượng của phương pháp dạy học Tiếng Việt một cách sâu sắc, trang bị cho chúng ta phương pháp nghiên cứu đúng đắn: xem xét các quá trình dạy học Tiếng Việt trong 11
  12. sự phát triển và trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong sự mâu thuẫn và sự thống nhất, phát hiện những sự biến đổi số lượng dẫn tới những biến đổi chất lượng Sau đây, chúng ta xem xét những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ngôn ngữ và quá trình nhận thức có ảnh hưởng quan trọng, trực tiếp đối với phương pháp dạy tiếng, những luận điểm được xem như là những lí thuyết quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của việc dạy học Tiếng Việt. a. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người” (Lênin). Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp mà là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phương tiện giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. Việc nắm bản chất xã hội của ngôn ngữ cho phép ta rút ra kết luận có tính chất phương pháp. Nếu ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm thì nghiên cứu nó phải nghiên cứu hệ thống hoạt động chức năng. Mục đích nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường là phải giúp HS có thể sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp. Vì vậy phát triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng trong nhà trường. Tất cả các giờ dạy Tiếng Việt, cả dạy đọc, viết, cả nghiên cứu ngữ pháp, từ ngữ phải đi theo khuynh hướng này. HS phải ý thức được chức năng của ngôn ngữ, nắm vững các phương tiện, kết cấu và quy luật cũng như hoạt động hành chức của nó. HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không phải chỉ để cho mình mà còn cho người khác, do đó ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu. Đồng thời, vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp nên phải lấy hoạt động giao tiếp làm phương tiện để dạy và học Tiếng Việt. b. Ngôn ngữ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với tư duy, “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (C.Mác). Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức lôgíc, lí tính. Chính trong các đơn vị và dạng thức ngôn ngữ có sự khái quát hóa, trừu tượng hóa. Tư duy của con người không thể phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Việc chiếm lĩnh ngôn ngữ nhằm tạo ra những tiền đề để phát triển tư duy. Từ đây người ta rút ra những kết luận có tính chất phương pháp: kiến thức, kĩ xảo ngôn ngữ phải được xem xét như là những yếu tố của phát triển tư duy, các hệ thống dạy học Tiếng Việt cần bảo đảm mối liên hệ giữa lời nói và tư duy. Phải thường xuyên luyện tập cho HS khả năng diễn đạt tư tưởng của mình bằng những hình thức ngôn ngữ khác nhau. Lời nói cần có nội dung, đó chính là tư duy. Trong dạy tiếng có thể đi từ tư duy đến ngôn ngữ, ví dụ từ một ý viết thành những câu khác nhau. Phương pháp dạy học không dựa vào sự phát triển tương hỗ giữa lời nói và tư duy là phương pháp sai lầm về phương diện triết học của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. c. Nhận thức luận của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng: Con đường biện chứng của nhận thức chân lí đi qua hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính, đồng thời cũng chỉ ra thực tiễn là cội nguồn, động lực của nhận thức, cũng là tiêu chuẩn của chân lí, là đỉnh cao và mục đích cuối cùng của nhận thức. Đây là cơ sở của nguyên tắc trực quan trong dạy tiếng và cũng là cơ sở để đề cao nguyên tắc phải tính đến đặc điểm tiếng mẹ đẻ của HS trong quá trình dạy học Tiếng Việt. Khi nói về sự cần thiết của việc trẻ em nắm kiến thức ngôn ngữ một cách có ý thức, chúng ta không quên ý nghĩa của việc nhận thức các hiện tượng ngôn ngữ một cách cảm tính của chúng. Đứa trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách cảm tính, bằng mắt, bằng tai gắn với màu sắc, âm thanh cụ thể. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của nhà trường trong dạy tiếng là phát triển những khả năng nhận thức cảm tính của trẻ em. Dạy tiếng phải dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói của HS. Những quan sát và ấn tượng sống của trẻ em phải là cơ sở cho bài học Tiếng Việt. HS sẽ đi từ việc quan sát tiếng nói trong đời sống, thông qua việc phân tích tổng hợp để đi đến những khái quát hóa, những định nghĩa lí thuyết, những quy tắc và từ đó lại quay về thực tiễn giao tiếp lời nói 12
  13. sống động trong dạng nói và dạng viết. Kết quả là các em tiếp nhận được những mẫu lời nói và quy tắc ngôn ngữ một cách có ý thức. Cách làm việc như vậy của HS với tiếng mẹ đẻ trong nhà trường không chỉ tuân thủ những quy luật chung của quá trình nhận thức chân lí của loài người mà còn đáp ứng được những đòi hỏi của lí luận dạy học hiện đại. Đó là con đường nghiên cứu phát minh – khuynh hướng của phương pháp dạy học hiện đại nói chung, của dạy học Tiếng Việt nói riêng. 2. Cơ sở ngôn ngữ học và văn học Ngôn ngữ học nói chung, Tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương pháp dạy học Tiếng Việt. Từ mối quan hệ này có ý kiến cho rằng phương pháp dạy học Tiếng Việt là ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ nói chung, Tiếng Việt nói riêng không chỉ tạo nên nền tảng của môn học Tiếng Việt. Lôgíc khoa học của ngôn ngữ quyết định lôgíc môn học Tiếng Việt. Phương pháp dạy học Tiếng Việt phải phát hiện được những quy luật riêng, đặc thù của dạy học Tiếng Việt. Chính khoa học ngôn ngữ quy định đặc thù này. Những hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ, của Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc định ra các nguyên tắc, nội dung và phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ví dụ, từ bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, dạy tiếng phải làm cho HS nắm được giá trị của từng yếu tố ngôn ngữ, tính hệ thống của ngôn ngữ là cơ sở để xây dựng các bài tập yêu cầu HS tìm các yếu tố khi biết một yếu tố khác, hoặc tìm quan hệ khi biết các yếu tố Đó cũng là cơ sở để cung cấp từ theo chủ đề ở tiểu học v.v Các bộ phận của Ngôn ngữ học ( bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách) có vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung và phương pháp dạy học. Ngữ âm trong quan hệ qua lại với chữ viết là cơ sở của việc soạn thảo phương pháp dạy đọc, viết, cơ sở của việc hình thành kĩ năng đọc sơ bộ. Phương pháp tập viết dựa trên lí thuyết chữ viết. Những hiểu biết về từ vựng học cần thiết đối với việc tổ chức dạy từ trong nhà trường là cơ sở để xây dựng những bài tập phong phú với từ đồng nghĩa, trái nghĩa, với các nhóm từ theo chủ điểm, từ nhiều nghĩa, những sắc thái nghĩa, những nét nghĩa biểu cảm của từ Từ pháp học và cú pháp học là cơ sở để tạo ra những biểu tượng về cấu trúc ngôn ngữ, và hệ thống của nó. Kiến thức ngữ pháp được sử dụng để hình thành kĩ năng, kĩ xảo trong dạy chính tả và dấu câu. Ngữ pháp quan trọng trong việc dạy phát triển lời nói và nó bảo đảm quan hệ giữa các từ, cụm từ vào việc viết câu đúng. Ngoài ra, gần đây, trong phương pháp dạy tiếng, người ta dựa nhiều hơn vào phong cách học. Ví dụ, ở tiểu học người ta dựa vào sự phân định ranh giới của ngôn ngữ hội thoại và ngôn ngữ viết để dạy nói cho HS. 13
  14. Tóm lại, Ngôn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng quy định cả nội dung dạy học, trình tự sắp xếp nội dung môn học và cả phương pháp làm việc của thầy và trò trong giờ tiếng Việt. Bên cạnh Ngôn ngữ học còn có thể kể đến cơ sở văn học. Ví dụ, phương pháp đọc dựa trên lí thuyết văn học. HS cần chiếm lĩnh các văn bản văn chương và vì vậy mặc dầu không học những kiến thức lí luận văn học, việc đọc những bài văn, bài thơ ở tiểu học vẫn được xây dựng trên cơ sở của những quy luật chung nhất về bản chất của văn chương, tác phẩm văn học và sự tác động của nó đến người đọc. 3. Cơ sở giáo dục học Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục nên nó phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói chung, Lí luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho Phương pháp dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học môn học. Có thể coi Phương pháp dạy học tiếng Việt là một khoa học sinh ra từ sự tích hợp biện chứng của Việt ngữ học và Lí luận dạy học đại cương. Mục đích của Phương pháp dạy học Tiếng Việt cũng như các khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của HS, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới. Quan hệ của Phương pháp dạy học Tiếng Việt với khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ phương pháp dạy học tiếng được một hệ thống lí luận giáo dục tạo ra và làm cơ sở. Phương pháp dạy học Tiếng Việt hoàn toàn sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của giáo dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục do giáo dục học đề ra – phát triển trí tuệ, hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy sáng tạo cho HS, giáo dục tư tưởng đạo đức, phát triển óc thẩm mĩ giáo dục tổng hợp và giáo dục lao động. Trong Phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các nguyên tắc cơ bản của Lí luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng những nguyên tắc này tuỳ theo những đặc trưng riêng của mình. Ví dụ nguyên tắc gắn liền lí thuyết với thực hành trong phương pháp dạy học Tiếng Việt đòi hỏi một hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩa bằng lời nói, viết, cùng với việc thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết vào giải bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời nói đã quy định việc xây dựng chương trình Tiếng Việt mà tất cả các 14
  15. phân môn đều có mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện nguyên tắc trực quan trong giờ tiếng Việt không chỉ là việc chỉ sử dụng sơ đồ, bảng biểu, dùng chữ viết sẵn, phim ảnh mà còn là “trực quan lời nói”, bao gồm từ việc quan sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa vào bài khóa trong khi nghiên cứu về ngữ âm, từ vựng, chính tả, ngữ pháp. Tài liệu trực quan cơ bản trong giờ học Tiếng Việt là Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt trong những mẫu tốt nhất của nó: văn học dân gian, tác phẩm văn học Việt Nam và thế giới. Phương pháp dạy học Tiếng Việt chọn ở giáo dục học các hình thức tổ chức dạy học như bài học và các hình thức khác. Các phương pháp dạy học cơ bản – phương pháp bằng lời, phương pháp bài tập, phương pháp dạy học nêu vấn đề đều có mặt trong giờ Tiếng Việt. 4. Cơ sở Tâm lí học và Tâm lí ngôn ngữ học Quan hệ của phương pháp dạy học Tiếng Việt và Tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lí người nói chung và tâm lí trẻ em lứa tuổi tiểu học nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho HS. Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều kết quả của Tâm lí học. Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Thầy giáo cần biết, sản phẩm lời nói được sản sinh ra như thế nào, quá trình học được thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp được hình thành ở trẻ em ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy ra sao, kĩ năng nói, viết được hình thành như thế nào ? Tâm lí học đưa ra cho phương pháp những số liệu cụ thể về quá trình nắm lời nói, về việc nắm ngữ pháp. Những nghiên cứu tâm lí học cho phép xác định mức độ vừa sức của tài liệu học tập. Mặt khác, Tâm lí ngữ học đem lại cho phương pháp những số liệu về lời nói như một hoạt động, ví dụ như việc xác định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu quả sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa cá thể với nhiều người. 15
  16. Chương 3 CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC A. MỤC TIÊU 1. Kiến thức : Sinh viên nắm mục tiêu môn học Tiếng Việt; các cơ sở xây dựng chương trình; các nguyên tắc xây dựng chương trình và các nguyên tắc biên soạn SGK Tiếng Việt; chương trình môn Tiếng Việt ở trường tiểu học. 2. Kĩ năng: Sinh viên biết phân tích mục tiêu môn học Tiếng Việt; phân tích các nguyên tắc xây dựng chương trình, nguyên tắc biên soạn SGK; mô tả và phân tích nội dung chương trình môn Tiếng Việt ở trường tiểu học. B. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP: 1. Phân tích mục tiêu của chương trình Tiếng Việt ở tiểu học? Thực hành phân tích mục tiêu của một bài học được thể hiện trong một phân môn. 2. Phân tích các nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt Tiểu học 3. Giải thích các căn cứ xây dựng chương trình và các nguyên tắc biên soạn SGK Tiếng Việt. 4. Trình bày những đặc điểm cơ bản của chương trình Tiếng Việt ở các lớp 1,2,3,4.5. 5. Nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt, phát hiện những phần, những nội dung chưa hiểu để tìm lời giải đáp trong nhóm. 6. Phát hiện những bài tập trong SGK dự đoán là HS khó thực hiện và đề xuất cách xử lí. C. NỘI DUNG 1. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm: “1) Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. 2) Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. 16
  17. 3) Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” 2. Những căn cứ để xây dựng chương trình Tiếng Việt ở tiểu học 2.1.Căn cứ yêu cầu về kinh tế xã hội và giáo dục của giai đoạn mới Sang thế kỉ 21, đất nước chúng ta bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một quá trình đầy gian khổ, kéo dài vài chục năm, dẫn đến những sự đổi thay quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển sản xuất, khoa học kĩ thuật, cơ cấu xã hội, thu nhập quốc dân Gần đây trên thế giới cũng như ở nước ta bắt đầu đặt ra những vấn đề như nền kinh tế tri thức, nền kinh tế của công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa trong kinh tế, vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Những thay đổi về mặt kinh tế xã hội trên thế giới đã được phản ánh vào giáo dục, đòi hỏi phải có những đổi mới tư duy trong phát triển giáo dục và đào tạo. Những thay đổi quan trọng đó trong kinh tế - xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới những yêu cầu mới trong dạy tiếng nói chung, dạy tiếng mẹ đẻ nói riêng. Để Tiếng Việt trở thành công cụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho sự phát triển giáo dục, việc dạy Tiếng Việt phải nhằm vào cả hai chức năng của ngôn ngữ (công cụ của tư duy và công cụ của giao tiếp), phải chú trọng vào cả bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết), phải hướng tới sự giao tiếp và sử dụng phương pháp giao tiếp Đó là các lý do đòi hỏi sự thay đổi trong chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung, dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói riêng. 2.2 Căn cứ vào mục tiêu đào tạo nói chung, mục tiêu môn học nói riêng Đây là căn cứ quan trọng nhất. Môn Tiếng Việt trong nhà trường không thể sao chép từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì nhà trường có nhiệm vụ riêng của mình. Dạy học Tiếng Việt trong nhà trường nhằm hình thành cho HS những kĩ năng, kĩ xảo về ngôn ngữ và các thao tác tư duy. Mục tiêu dạy học sẽ chi phối việc lựa chọn dạy những gì thiết thực đối với trẻ em. Môn học Tiếng Việt cần đảm bảo cho HS những mẫu đúng đắn của ngôn ngữ văn hoá, giáo dục cho HS văn hoá giao tiếp, dạy cho các em biết truyền đạt tư tưởng, hiểu biết, tình cảm của mình một cách, chính xác và biểu cảm. Quan niệm về mục tiêu môn học khác nhau là cơ sở để đề xuất chương trình khác nhau. Nếu mục tiêu cơ bản của dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường là hình thành và phát triển kĩ năng kĩ xảo hoạt động lời nói cho HS thì cần phải biết lựa chọn những tài liệu lí thuyết đủ trang bị cho các em nắm những kĩ năng chính âm, chính tả, ngữ pháp. 2.3. Căn cứ thành tựu của các khoa học cơ bản, khoa học cơ sở và phương pháp dạy học Mấy chục năm qua, Ngôn ngữ học, Việt ngữ học, Tâm lý học, Giáo dục học và phương pháp dạy tiếng đã có những bước phát triển vượt bậc, tạo điều kiện cho việc xây dựng một chương trình Tiếng Việt tiểu học mới. Về ngôn ngữ học, việt ngữ học, xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ, nghiên cứu Tiếng Việt theo quan điểm hành chức, nghiên cứu ngôn ngữ và Tiếng Việt trong giao tiếp đã được chú ý, dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của ngữ dụng học bên cạnh xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống, theo cấu trúc. Các thành tựu nghiên cứu về lý thuyết hội thoại, về giao tiếp ngôn ngữ đã mang lại những cơ sở vững chắc cho sự phát triển phương pháp dạy học tiếng trong giao tiếp và bằng giao tiếp. 17
  18. Về mặt tâm lý học, giáo dục học, việc xác định vai trò chủ động tích cực của người học trong quá trình dạy học, trong việc phát triển nhân cách và trí tuệ của người học đã dẫn tới sự nhấn mạnh về phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề, chuyển từ cách học thụ động nặng về ghi nhớ sang cách học chủ động kết hợp ghi nhớ với hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. 2.4. Sự kế thừa các thành tựu dạy Tiếng Việt trong những năm qua và tiếp thu kinh nghiệm dạy tiếng mẹ đẻ của thế giới Một thế kỉ qua, đặc biệt là sau Cách mạng tháng Tám, việc sử dụng Tiếng Việt ở nước ta đã có những bước tiến quan trọng và đạt được những thành tựu to lớn. Chữ quốc ngữ đã trở thành phương tiện văn tự chính để ghi Tiếng Việt. Tiếng Việt được dùng chính thức trong nhà trường, trong các văn bản hành chính, công vụ, trong khoa học, văn học nghệ thuật Trong nhà trường, từ chỗ không có chương trình dạy Tiếng Việt, đến thập kỉ 80 – 90 của thế kỉ XX, chúng ta đã có hai, ba chương trình, đáp ứng từng giai đoạn khác nhau của giáo dục nước nhà. Mỗi chương trình hướng tới một loại đối tượng (chương trình Tiếng Việt cho học sinh người Việt, chương trình Tiếng Việt cho học sinh các dân tộc vùng khó khăn, chương trình Tiếng Việt thực nghiệm của Công nghệ giáo dục ). Chương trình Tiếng Việt Tiểu học – 2000 (được điều chỉnh theo Quyết định 16/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã kế thừa tất cả những ưu điểm của các chương trình và sách giáo khoa đã có trước đây. Mặt khác, chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học – 2006 cũng tiếp thu nhiều kinh nghiệm và thành tựu dạy tiếng mẹ đẻ của các nước trên thế giới. 2.5 Căn cứ điều kiện dạy học ở tiểu học hiện nay trên phạm vi cả nước Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học Những điều kiện này ở các vùng khác nhau rất không đồng đều, có nhiều nơi trường lớp chưa đủ, các thiết bị dạy học Tiếng Việt còn thiếu, giáo viên trình độ thấp . Những điều này cần được tính toán đầy đủ khi xây dựng chương trình. 3. Những nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt 3.1. Nguyên tắc khoa học Nguyên tắc khoa học đòi hỏi môn Tiếng Việt phải đảm bảo tính chính xác, hiện đại nội dung dạy học. Nguyên tắc này cần được xem xét trong mối quan hệ với nguyên tắc vừa sức. Cấu tạo chương trình phải phù hợp logíc phát triển của khoa học Tiếng Việt, đồng thời hệ thống các tri thức của môn học, trật tự sắp xếp các tài liệu theo từng lớp học phải phù hợp lôgíc phát triển tâm lí và khả năng nhận thức của HS. Nguyên tắc khoa học yêu cầu về tính hệ thống đảm bảo cho sự kế thừa và phát triển tri thức, kĩ năng kĩ xảo, xác định rõ những mối quan hệ khác nhau không chỉ đối với cái mới mà còn đối với tri thức cũ như là yếu tố của một hệ thống trọn vẹn và thống nhất. 2. Nguyên tắc sư phạm 18
  19. Nguyên tắc sư phạm đòi hỏi chương trình môn học phải thống nhất với mục tiêu giáo dục chung, đích cuối cùng là hình thành cho HS những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mới. Chương trình Tiếng Việt, các ngữ liệu, nội dung văn bản lựa chọn phải hướng tới giáo dục và hình thành nhân cách cho HS. Nguyên tắc sư phạm nói về tính vừa sức của chương trình phải phù hợp với tâm lí nhận thức của HS tiểu học. 2. Nguyên tắc thực tiễn Nguyên tắc thực tiễn đòi hỏi việc xây dựng chương trình Tiếng Việt phải tính toán đầy đủ điều kiện dạy học cụ thể ở từng địa phương trên toàn quốc. Chương trình phải xác định được chuẩn tối thiểu của môn học, đồng thời phải có sự mềm dẻo nhất định để có khả năng thực thi ở các vùng miền khác nhau. 4. Nguyên tắc biên soạn và tiêu chuẩn của sách giáo khoa Tiếng Việt 4.1 Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 4.1.1 Nguyên tắc giao tiếp Để thực hiện mục tiêu: “Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập, giao tiếp trong môi trường hoạt động lứa tuổi”, SGK Tiếng Việt lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản. Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin) và kí mã (phát thông tin) trong ngôn ngữ. Mỗi hành vi đều có thể thực hiện bằng hai hình thức khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc, viết). Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, thông qua các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, sách giáo khoa tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn như: -Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kĩ năng đọc, nghe và nói. -Phân môn Luyện từ và câu, cung cấp kiến thức về Tiếng Việt, rèn cả 4 kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. -Phân môn Chính tả rèn kĩ năng viết và nghe. -Phân môn Tập viết chủ yếu rèn kĩ năng viết. -Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói và nghe. -Phân môn Tập làm văn rèn tất cả các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Sách giáo khoa dạy cho học sinh nhiều kĩ năng phục vụ giao tiếp thông thường, chẳng hạn: 19
  20. -Các nghi thức lời nói như: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối -Các kĩ năng giao tiếp trong cộng đồng (viết thư, gọi điện, viết đơn, phát biểu, điều khiển cuộc họp ). Về phương pháp dạy học, các kĩ năng nói trên được hình thành thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên. 4.1.2 Nguyên tắc tích hợp Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan đến nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Dựa vào mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học, sách giáo khoa đã tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội thông qua các chủ điểm học tập theo nguyên tắc đồng quy. Bằng việc tổ chức hệ thống bài đọc, bài học theo chủ điểm, sách giáo khoa dắt dẫn học sinh đi dần vào các lĩnh vực của đời sống, qua đó tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời mở rộng cánh cửa cho các em bước vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn của chính mình. Ở lớp 1, học sinh được học theo các chủ điểm tương đối rộng: Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên và Đất nước. Lên lớp 2, các chủ điểm được chia nhỏ hơn. Thí dụ: chủ điểm Nhà trường và Gia đình ở lớp 2 được chia thành 8 chủ điểm nhỏ: Em là học sinh, Bạn bè, Trường học, Thầy cô, Cha mẹ, Anh em, Ông bà, Bạn ở trong nhà. Lớp 3, ngoài các chủ điểm đã học ở lớp 1 và 2, học sinh được tiếp cận với các chủ điểm mới mở rộng hơn như Quê hương, Cộng đồng, Bắc Trung Nam, Ngôi nhà chung, Khoa học, Thể thao, Lễ hội Việc chia nhỏ các chủ điểm phù hợp với sự phát triển nhận thức của trẻ và giúp trẻ duy trì hứng thú học tập, loại trừ cảm giác nhàm chán dễ xảy ra khi học một chủ điểm trong một thời gian quá dài. Các chủ điểm là bộ khung cho cả cuốn sách giáo khoa. Ở lớp 1, thời gian học dành cho mỗi đơn vị học là 1 tuần; các chủ điểm lần lượt trở đi trở lại theo kiểu đồng tâm xoáy ốc; mỗi lần trở lại là một lần khai thác sâu hơn. Từ lớp 2 trở lên, mỗi chủ điểm được dạy trong 2 tuần, vòng đồng tâm xoáy ốc thưa hơn. Phải sau một năm, học sinh mới trở lại với chủ điểm đã học. Tính tích hợp của bộ sách còn thể hiện ở sự gắn bó giữa các bài học trong phân môn học, sự gắn bó các phân môn trong môn học. 4.1.3 Nguyên tắc tích cực hoá hoạt động của học sinh Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình, SGK là đổi mới phương pháp dạy và học: chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó thầy đóng vai trò tổ chức hoạt động của HS, mỗi HS đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình và phát triển. Theo nguyên tắc tích hoá hoạt động của HS, SGK không trình bày kiến thức như một kết quả có sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS học sinh thực hiện các 20
  21. hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt; còn SGV có nhiệm vụ hướng dẫn thầy cô giáo cách thức cụ thể để tổ chức hoạt động học cho HS. 4.2 Các tiêu chuẩn của sách giáo khoa Tiếng Việt 4.2.1 Trình bày các kiến thức lí thuyết cơ bản về Tiếng Việt, những quy tắc và các định nghĩa đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, dễ hiểu đối với học sinh. 4.2.2 Góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng cho HS thế giới quan duy vật biện chứng phát triển ở các em tư duy logíc và lòng yêu mến sự giàu đẹp của Tiếng Việt. 4.2.3 Đưa vào số lượng vừa đủ bài tập sao cho chúng vừa phong phú, đa dạng vừa có hiệu quả thiết thực và sắp xếp một cách hợp lí. 4.2.4 Sách hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, nhiều bài đọc mang tính truyện để tăng tính hấp dẫn, làm cho học sinh ham học. Chú trọng vai trò của kênh hình (tranh ảnh, màu sắc). 5. Cấu trúc nội dung chương trình 5.1. Các bộ phận của chương trình: Chương trình Tiếng Việt Tiểu học – 2006 gồm những bộ phận sau: -Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói). -Tri thức Tiếng Việt (một số hiểu biết cơ sở, tối thiểu về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp ). -Tri thức về văn học, về tự nhiên và xã hội (một số hiểu biết tối thiểu về văn học và cách tiếp cận chúng, về con người, về đời sống tinh thần và vật chất, về đất nước và dân tộc Việt Nam ). 5.2. Cấu trúc hai giai đoạn của chương trình: 5.2.1) Giai đoạn 1 (các lớp 1,2,3) Nội dung dạy học giai đoạn này có nhiệm vụ: Hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn Tiếng Việt mà trẻ em đã có. Yêu cầu cơ bản với học sinh ở giai đoạn này là: Đọc thông thạo và hiểu đúng một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch. Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành đọc, viết, nghe, nói. Tri thức Tiếng Việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra từ những bài thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua hoạt động thực hành. Ví dụ, học âm e, sau đó viết con chữ e. Những tri thức về âm – chữ cái, về tiếng (âm tiết) – chữ, về thanh điệu – dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong hội thoại (câu hỏi, đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lý thuyết mà học sinh được hình dung cụ thể 21
  22. trong một văn bản cụ thể. Trình độ nắm tri thức của học sinh ở giai đoạn này cũng chỉ dừng ở mức: các em nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Phần tri thức có trong nội dung chương trình của các lớp 1,2,3 chỉ có ý nghĩa xác định những tri thức học sinh cần làm quen. 5.2.2) Giai đoạn 2 (các lớp 4,5) Nội dung chương trình giai đoạn này nhằm phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói lên một mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn, trong đó yêu cầu viết hoàn chỉnh một số văn bản, yêu cầu đọc – hiểu được đặc biệt coi trọng. Học sinh ở giai đoạn này đã được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng Việt làm nền móng cho việc phát triển kĩ năng. Bên cạnh những bài học thực hành (ở giai đoạn trước), các em được học các bài về tri thức Tiếng Việt (từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách ). Những bài học này cũng không phải là lý thuyết đơn thuần, được tiếp nhận hoàn toàn bằng con đường tư duy trừu tượng, mà chủ yếu vẫn bằng con đường nhận diện, phát hiện trên những ngữ liệu đã đọc, viết, nghe, nói; rồi sau đó mới khái quát thành những khái niệm. Nội dung chương trình môn Tiếng Việt mỗi năm học 35 tuần. Nó gồm 8 phân môn. Số tiết học trong từng phân môn của các lớp được phân bố trong chương trình khung như sau: Phân Học Tập Kể Chính Tập Luyện Tập Tổng từ &câu môn vần- đọc chuyện tả viết làm cộng TV văn (*) Lớp 1 10 6 1 2 1 10 2 3 1 2 1 1 1 9 3 2,5 0,5 2 1 1 1 8 4 2 1 1 2 2 8 5 2 1 1 2 2 8 (*) Học vần được học ở 24 tuần đầu lớp 1 theo qui định một đơn vị học gồm 02 tuần: Tuần thứ nhất học 05 bài học vần, mỗi bài 2 tiết; tuần thứ 2 học 04 bài học vần, mỗi bài 2 tiết, 02 tiết của tuần thứ hai dạy tập viết các nội dung đã học vần ở cả hai tuần học. Các phân môn trong phần Luyện tập tổng hợp (gồm Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, tập viết) được học từ tuần 25 trở đi. 6. Trọng tâm và điểm khó của chương trình: 22
  23. 6.1. Các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là trọng tâm của chương trình Xuất phát từ mục tiêu của môn học, các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trở thành trọng tâm học và luyện tập suốt bậc tiểu học. Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là một hệ thống kĩ năng đặc biệt, vừa liên quan đến hoạt động của bộ não, của tư duy vừa liên quan đến hoạt động của một số giác quan. Nó mang tính hệ thống cao, là hệ thống của các hệ thống. Nó gắn liền với văn hóa ứng xử, mang đậm tính dân tộc, gắn với vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của cá nhân. Nó còn mang tính thực hành cao, gắn liền với các dạng hoạt động lời nói, các tình huống giao tiếp. 6.2. Luyện tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trên hai phương diện gắn với hoạt động của các giác quan và hoạt động tư duy Đề cao việc học tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là điểm mới và điểm khó của chương trình. Để giảng dạy tốt các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cần nắm được hai phương diện của các kĩ năng này: phương diện kĩ thuật và phương diện thông hiểu nội dung. Một người muốn nói hoặc viết được trước tiên phải xây dựng nội dung các thông báo (lập mã) sau đó truyền thông báo đi (bằng âm thanh hoặc chữ viết). Một người muốn nghe hoặc đọc được trước tiên phải tiếp nhận được các thông báo (qua con đường nghe các âm thanh hoặc đọc các chữ viết) sau đó phải giải mã để hiểu được các nội dung chứa trong thông báo đó. Phương diện thông hiểu nội dung hoặc diễn đạt đúng nội dung gắn liền với các hoạt động của bộ não. Hàng loạt thao tác tư duy được huy động (lựa chọn, phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống ) để đưa các ý cần nói hoặc viết vào thông báo (khi lập mã) hoặc rút ra các ý gửi gắm trong thông báo (khi giải mã). Rất khó tách rời hai phương diện này trong kĩ năng nghe hoặc nói, đọc hoặc viết. Nhiều khi nội dung thông báo được gửi gắm ngay trong các động tác có tính chất kĩ thuật. Lúc đó người giải mã phải tìm cách hiểu được cả các nội dung đó. Ví dụ, kéo dài giọng nói của một từ, một ngữ nào đó của thông báo, giọng đọc diễn cảm một văn bản có thể cho người nghe biết một thông tin có khi còn quan trọng hơn cả thông tin trong chính thông báo. Song điều ấy không xoá nhoà được hai phương diện của các kĩ năng nghe, nói, đọc viết. Chương trình Tiếng Việt tiểu học chú ý dạy học sinh phương diện kĩ thuật của các kĩ năng dạy đọc thành tiếng và đọc thầm, dạy viết chữ, dạy nói rõ ràng, to; dạy phân biệt các âm, vần dễ lẫn lộn khi nghe Chương trình còn chú ý dạy nhiều hơn các kĩ năng gắn với việc thông hiểu nội dung, sự diễn đạt đúng nội dung các văn bản hoặc thông báo. Trong kĩ năng nghe có mục “nghe hiểu”, trong kĩ năng đọc có mục “đọc hiểu”, trong kĩ năng nói có mục “nói trong hội thoại, nói thành bài” Các mục này đề ra mức độ và yêu cầu luyện tập các kĩ năng gắn với sự thông hiểu nội dung. 6.3.Luyện tập kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ở tất cả các cấp độ, từ thấp đến cao Các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là một hệ thống phức hợp các kĩ năng bộ phận và kĩ năng tổng hợp. Nói cách khác mỗi kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là một hệ thống phức tạp. Ví dụ, về kĩ năng viết, để viết được một văn bản hoàn chỉnh, học sinh phải huy động cả một hệ thống nhiều kĩ năng bộ phận. Trước hết là kĩ năng viết chữ (viết con chữ, tiếng, từ ), sau đó là kĩ năng viết đúng (về chính tả, về từ, về câu), các kĩ năng lựa chọn sắp xếp tư liệu, ý 23
  24. tứ để tạo thành dàn bài; kĩ năng liên kết câu, liên kết đoạn, dựng đoạn văn để thành bài hoàn chỉnh; kĩ năng kiểm tra, sửa chữa bài viết và đánh giá kết quả Do vậy, việc tổ chức dạy luyện tập kĩ năng sử dụng Tiếng Việt được chia nhỏ thành các kĩ năng bộ phận và gắn với yêu cầu mức độ luyện tập khác nhau ở từng lớp (nhất là ở các lớp 1,2,3). Chỉ khi đã thành thạo các kĩ năng bộ phận, chương trình mới tiến tới việc luyện tập các kĩ năng tổng hợp (chủ yếu ở lớp 4, 5). 6.4. Kết hợp luyện tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt với việc học văn hoá ứng xử bằng ngôn ngữ của người Việt, tích luỹ kinh nghiệm giao tiếp Dạy luyện tập kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong các dạng hoạt động lời nói, và các tình huống giao tiếp đa dạng là một nguyên tắc quan trọng trong việc thực hiện chương trình Tiếng Việt tiểu học. Bởi lẽ, ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Thông qua các bài tập thực hành đơn giản như giới thiệu về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục đích nhất định, học sinh được luyện tập về các kĩ năng ứng xử trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Ví dụ, về dạy luyện tập kĩ năng nói, chương trình đã qui định có hai dạng kĩ năng cần rèn luyện: nói trong hội thoại, và nói thành bài. Hai dạng kĩ năng này được dạy ở tất cả các phân môn Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp đã trình bày ở trên, thông qua nhiều dạng bài tập như: -Dựa vào kênh hình, tập nói thành câu, đoạn, bài. -Dựa vào câu hỏi gợi ý hoặc câu nêu ý chính, tập nói thành câu, đoạn, bài. -Dựa vào thực tế và kinh nghiệm của bản thân để nói thành lời. -Thực hành luyện nói bằng hình thức trò chơi hội thoại Điều quan trọng là các bài thực hành dạy luyện nói đều cố gắng tạo ra môi trường giao tiếp bằng cách đưa ra các tình huống ứng xử cụ thể, các hoàn cảnh giao tiếp phù hợp với yêu cầu rèn luyện. 6.5. Dạy tri thức Tiếng Việt gắn với việc rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt giúp học sinh nhận diện, phát hiện, hoàn thiện các tri thức Tiếng Việt; ngược lại, tri thức Tiếng Việt góp phần ý thức hóa kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Để thực hiện yêu cầu này, chương trình quy định hai mức độ học tri thức Tiếng Việt. Ở lớp 1,2,3, tri thức Tiếng Việt không có tiết học riêng. Các đơn vị tri thức quy định cho 3 lớp học này giúp giáo viên có cơ sở lí luận để dạy các kĩ năng cho học sinh, chưa yêu cầu học sinh phải học thành bài các khái niệm, quy tắc. Ngược lại, ở các lớp 4 và 5, tri thức Tiếng Việt được dạy thành các tiết học riêng sắp xếp thành hệ thống (mặc dù chỉ là tri thức sơ giản) và vẫn gắn với việc luyện tập các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. 7. Nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt các lớp 24
  25. 7.1. Sách Tiếng Việt 1 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 gồm 2 tập: Tiếng Việt 1 tập 1 *.Dạy âm vần Bố trí theo thứ tự: -Âm đầu + âm chính (la). -Âm chính + âm cuối (an). -Âm đầu + âm chính + âm cuối (lan). -Âm đầu + âm đệm + âm chính + âm cuối (loan). * Kết hợp dạy âm, vần với rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Tiếng Việt 1, tập 2 -Từ tuần 18 đến tuần 21 (chương trình điều chỉnh đến tuần 24) tiếp tục học xong phần vần. -Từ tuần 22 trở đi (chương trình điều chỉnh học từ tuần 25): luyện tập tổng hợp, sách có cấu trúc mỗi tuần học 10 tiết gồm: + Tập đọc 3 văn bản (6 tiết). + Chính tả: 2 tiết. + Kể chuyện: 1 tiết. + Tập viết: 1 tiết. -Đặc điểm của hệ thống văn bản: + Các văn bản thuộc 2 loại: văn bản ngôn ngữ nghệ thuật (khoảng 70%) và văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác nhau, gồm nhiều thể loại: ca dao, đồng dao, tục ngữ, thơ, văn xuôi, truyện kể ngắn. + Văn xuôi (gần 70%) được dạy xen kẽ với văn vần. + Một số văn bản có tính hài để học sinh hứng thú học tập. + Các văn bản truyện kể có chú ý gắn với chủ điểm tập đọc. Ví dụ: Các tuần có chủ điểm Đất nước và Thiên nhiên thì truyện kể thường nói về các nhân vật lịch sử. Các tuần có chủ điểm Nhà trường, Gia đình thì các truyện kể thường có đề tài về nhà trường hoặc gia đình hoặc nói về các tình huống gần với sinh hoạt của trẻ em trong gia đình, xã hội. 25
  26. -Mỗi tiết học đều gồm các hoạt động để rèn luyện cả 4 kĩ năng nhưng mỗi tiết học lại có một hoạt động chủ đạo nhằm rèn kĩ hơn một kĩ năng nào đó. Ví dụ: + Phân môn tập đọc: học sinh chủ yếu luyện đọc trơn, đọc hiểu và tập nói (có cả yêu cầu luyện nghe). Việc thực hiện yêu cầu đọc hiểu còn ở mức độ thấp: học sinh đọc xong bài ghi nhớ được nội dung vừa đọc và vừa kể lại, thuật lại nội dung đó. Với một số ít bài, học sinh còn phải hiểu được ý nghĩa hiển ngôn của văn bản (phù hợp với trình độ học sinh lớp 1). Có nhiều loại bài tập để tập nói như: Đặt câu; Nói tiếp câu dở dang; Nối các từ ngữ hay mệnh đề thể hiện sự hiểu biết nội dung; Trả lời các câu hỏi về nội dung, ý nghĩa văn bản; Nói cảm xúc, ý nghĩ của mình khi học văn bản; Kể lại chuyện có tranh hoặc không có tranh làm điểm tựa + Phân môn chính tả: học sinh chủ yếu luyện kĩ năng viết chữ, viết chính tả. Khi viết chính tả các yêu cầu luyện đọc, luyện nghe vẫn được tiếp tục. Ngoài bài tập viết chính tả dưới các hình thức nhìn – viết, nghe – viết, còn nhiều dạng bài tập như: Điền nối âm, vần, tiếng vào chỗ trống; Nối từ với hình vẽ; Nối từ ngữ, mệnh đề thể hiện sự hiểu biết về từ ngữ, ngữ pháp; Khoanh tròn các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, điền các dấu trên ; Viết hoa những chữ sau dấu chấm, viết hoa họ tên mình, họ tên người khác; Điền dấu thanh, điền chữ còn thiếu; Sửa lỗi sai âm đầu; Nhìn tranh viết tiếp câu dưới tranh; Viết theo trí nhớ + Phân môn kể chuyện: học sinh phải chăm chú nghe thầy cô giáo kể chuyện, để sau đó nhớ truyện và kể lại được câu chuyện. Yêu cầu phân tích ý nghĩa truyện có thể đặt ra nhưng ở mức đơn giản. + Phân môn tập viết: học sinh luyện viết chữ trên lớp và ở nhà theo Vở tập viết. Việc luyện viết được kết hợp với việc ôn luyện âm vần đang học trong tuần. Học sinh chỉ luyện viết chữ hoa cỡ to, chữ thường cỡ vừa và nhỏ 7.2.Sách Tiếng Việt 2 Trừ phân môn Tập viết có thêm vở tập viết, sách Tiếng Việt 2 gồm 2 tập biên soạn tích hợp các phân môn học sau: 7.2.1.Phân môn Tập đọc -Mỗi tuần học 3 tiết tập đọc. -Các bài học tập đọc được sắp xếp xen kẽ với các bài học của các phân môn khác, để tiện lợi trong sắp xếp thời khoá biểu. -Cấu trúc thông thường của mỗi bài tập đọc gồm: + Đầu bài. + Tranh minh hoạ nội dung (có ở hầu hết các bài tập đọc). + Nội dung bài đọc (văn bản tập đọc). 26
  27. + Chú giải, chủ yếu chú giải nghĩa trong bài và có trường hợp nghĩa rộng hơn. + Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài. -Về văn bản tập đọc: những văn bản tập đọc là truyện kể có ghi số (1, 2, 3 ) ở từng đoạn truyện nhằm giúp học sinh nắm được bố cục, giúp học sinh đọc – hiểu nội dung để trả lời câu hỏi, đồng thời chuẩn bị cho yêu cầu luyện nói trong giờ kể chuyện ở tiết kể chuyện sau. -Về câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài: Bài tập đọc 2 tiết có nhiều nhất là 5 câu hỏi, các bài tập đọc khác thông thường có 3 đến 4 câu hỏi. Các câu hỏi thường sắp xếp theo trình tự nội dung bài đọc. Câu hỏi gồm các loại chủ yếu sau: + Những câu hỏi tái hiện. Thí dụ: “Đôi bạn Bê Vàng và Dê Trắng sống ở đâu ?”, hoặc: “Khổ thơ 1 cho em biết điều gì về cô giáo ?” + Câu hỏi gợi mở. Thí dụ: “Khi Bê Vàng quên đường về, Dê Trắng làm gì ?” hoặc: “Tính nết của Gấu trắng có gì đặc biệt ?” + Câu hỏi bộc lộ ý kiến cá nhân. Thí dụ: “Hãy nói vài câu bênh vực cho Mít.” -Hệ thống chủ điểm được chia nhỏ, cụ thể và phong phú hơn: Sách Tiếng Việt 2, tập 1 có 8 chủ điểm: + Em là học sinh (tuần 1, 2) + Bạn bè (tuần 3, 4) + Trường học (tuần 5, 6) + Thầy cô (tuần 7, 8) + Cha mẹ (tuần 10, 11) + Anh em (tuần 12, 13) + Ông bà (tuần 14, 15) + Bạn trong nhà (tuần 16, 17) Sách Tiếng Việt 2, tập 2 có 7 chủ điểm: + Bốn mùa (tuần 19, 20) + Chim chóc (tuần 21, 22) + Muông thú (tuần 23, 24) + Sông biển (tuần 25, 26) 27
  28. + Cây cối (tuần 28, 29) + Bác Hồ (tuần 30, 31) + Nhân dân (tuần 32, 33, 34) -Thể loại của các văn bản tập đọc đa dạng: Ngoài các văn bản nghệ thuật (văn miêu tả, kể chuyện, thơ) chương trình còn đưa vào nhiều văn bản thông thường, văn bản khoa học và nhật dụng để học sinh có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại văn bản để rèn các cách đọc văn bản khác nhau. 7.2.2.Phân môn Kể chuyện -Về nội dung: học sinh kể lại những chuyện đã học trong bài tập đọc 2 tiết. Ngoài ra kĩ năng kể chuyện còn được rèn luyện phần nào ở các tiết rèn kĩ năng nghe - nói và kĩ năng xây dựng bài ở phân môn Tập làm văn. -Mỗi tuần học 1 tiết kể chuyện. -Sự sắp xếp các bài kể chuyện trong sách giáo khoa: Không có sách dùng riêng cho kể chuyện. Kể chuyện được sắp xếp sau bài tập đọc (2 tiết) và phân bố đều ở cả 2 tập sách Tiếng Việt 2. Tập 1 gồm 16 truyện, tập 2 gồm 15 truyện. -Cấu trúc thông thường mỗi bài kể chuyện gồm: + Tên của phân môn “Kể chuyện” kèm theo kí hiệu em bé có điệu bộ chỉ tay. + Sau đó là các bài tập, mỗi bài kể chuyện thường có 2 câu: Câu 1: Dựa vào tranh kể từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện. Tranh sử dụng thường có 2 loại: loại đánh số theo thứ tự 1, 2, 3, 4, loại không đánh số thứ tự, dưới tranh có kèm theo các câu hỏi gợi ý hoặc dàn ý. Một số bài không sử dụng tranh chỉ có gợi ý để hướng dẫn học sinh tập kể. Thí dụ: Kho báu, Những quả đào Câu 2: Kể lại toàn bộ câu chuyện hoặc phân vai dựng lại câu chuyện. Ví dụ về cấu trúc một bài học kể chuyện lớp 2, tuần 1 (Sách Tiếng Việt 2, tập 1, trang 5): 7.2.3.Phân môn Chính tả -Mỗi tuần học 2 tiết. -Không có sách giáo khoa riêng, bài dạy của phân môn Chính tả được biên soạn tích hợp trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2. Trong tuần, tiết chính tả thứ nhất sau bài tập đọc thứ nhất và tiết kể chuyện; tiết chính tả thứ 2 sau bài tập đọc thứ 2. -Các tiết chính tả nhìn - viết và nghe - viết được sắp xếp đan xen nhau trong các tuần học. -Cấu trúc của bài chính tả nhìn – viết : + Mục 1 : 28
  29. * Nhìn - viết ( đoạn, bài ) : là bài tập đọc đã học. * Nhận xét về chính tả ( cách viết hoa, dấu câu, tìm các từ khó có yêu cầu viết đúng ) (kí hiệu ? ) + Mục 2 : Bài tập ( có thể có bài tập giải mẫu – kí hiệu M ) + Mục 3 : Bài tập (có thể có bài tập giải mẫu – kí hiệu M) Ví dụ, cấu trúc của bài chính tả nhìn - viết (Tập chép) tuần 7 (TV2, T1, tr 57) : -Cấu trúc của bài chính tả nghe – viết : + Mục 1 : *Nghe – viết (đoạn, bài ): là đoạn, bài đã học trong môn tập đọc. *Nhận xét về chính tả – kí hiệu (?) + Mục 2 : Bài tập ( có thể có bài tập giải mẫu – kí hiệu M ) + Mục 3 : Bài tập (có thể có bài tập giải mẫu – kí hiệu M) Ví dụ, cấu trúc của bài chính tả nghe - viết tuần 6 (TV2, T1, tr 50) : -Các bài tập chính tả rất đa dạng gồm: + Điền âm, vần, tiếng. + Điền chữ cái vào bảng. + Lập danh sách học sinh. + Rút ra nhận xét, quy tắc chính tả sau 1 bài tập. + Đặt câu để phân biệt chính tả sau 1 bài tập . + Sử dụng kênh hình thực hiện bài tập . -Chú ý đến bài tập lựa chọn cho vùng, miền, cho phép giáo viên có thể lựa chọn thêm những bài tập không có trong sách phù hợp với dạy chính tả gắn với phương ngữ. -Bài tập chính tả thể hiện tính tích hợp các kĩ năng ( viết, đọc, nghe, nói ), thông qua bài tập dần dần hình thành cho học sinh các khái niệm : ngữ âm, câu, dấu câu 7.2.4.Phân môn Tập viết -Số bài, thời lượng học: 31 bài, 31 tiết tương ứng với 31 tuần học. 29
  30. -Học kì I có 16 tiết (16 bài ). Học kì II có 15 tiết (15 bài ). Ngoài ra có 4 bài rèn luyện viết thêm ở nhà để học sinh luyện tập trong 4 tuần ôn tập, kiểm tra và thi giữa kì, cuối kì. -Vở tập viết lớp 2 gồm 2 tập tương ứng với 2 kỳ học . Tập viết 2, tập 1 có 16 bài trong đó có 13 bài dạy 1 chữ hoa, 3 bài dạy 2 chữ hoa (Ă-Â; E-Ê; Ô-Ơ) và 2 bài ôn luyện thêm ở nhà. Tập viết 2, tập 2 có 15 bài, trong đó có 8 bài dạy viết 1 chữ hoa, 5 bài dạy 2 chữ hoa kiểu 2 (A,M,N,Q,V), 1 bài dạy 2 chữ hoa (U-Ư) , 1 bài dạy viết ôn các chữ hoa kiểu 2. -Bài tập viết được thiết kế trên 2 trang vở có chữ viết mẫu trên dòng kẻ li (khoảng cách giữa 2 dòng kẻ là 0,25 cm): Trang lẻ : Tập viết ở lớp: + 1 dòng chữ cái viết hoa cỡ vừa . + 1 dòng chữ cái viết hoa cỡ nhỏ. + 1 dòng viết ứng dụng ( chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa ) cỡ vừa . + 1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ nhỏ. + 3 dòng viết ứng dụng (cụm từ có chữ viết hoa) cỡ nhỏ. Tập viết nghiêng ( tự chọn ) Trang chẵn: + Luyện viết ở nhà + Tập viết nghiêng (tự chọn ) -Trong vở tập viết, sau chữ viết mẫu, trên mỗi dòng kẻ đều có điểm đặt bút (dấu chấm) với dụng ý: giúp học sinh xác định rõ số lần viết theo mẫu, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết đúng hình dạng, quy trình chữ viết, đảm bảo khoảng cách đều nhau giữa các chữ . 72.5.Phân môn Luyện từ & câu -Số bài, thời lượng học: 31 bài, 31 tiết. Mỗi tuần có một tiết Luyện từ và câu. Học kì I: 16 tiết; học kì II: 15 tiết. -Vị trí tiết học trong sách giáo khoa: Luyện từ và câu được sắp xếp là tiết thứ 6 trong quy trình 10 tiết học về Tiếng Việt một tuần (sau các bài học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập đọc (bài thứ hai)). -Mỗi bài học Luyện từ và câu thông thường được trình bày gồm 3 – 4 bài tập (phần nhiều là 3 bài tập). Cách sắp xếp các bài tập theo thứ tự: + Những bài tập nhằm giúp học sinh nhận biết về từ ngữ theo chủ điểm hoặc từ loại. + Những bài tập về nhận diện các dấu hiệu liên quan đến câu. + Những bài tập vận dụng từ và câu trong giao tiếp. 30
  31. 7.2.6.Phân môn Tập làm văn -Mỗi tuần học một tiết, kì I học 16 tiết, kì II học 17 tiết. -Các bài học được sắp xếp học cuối cùng (tiết thứ 9) của trình tự các phân môn Tiếng Việt trong một tuần. -Cấu trúc của mỗi bài học gồm: + Tên phân môn: “Tập làm văn” kèm theo kí hiệu vẽ em bé có điệu bộ tay cầm viết, nét mặt suy nghĩ. + Bài tập 1 + Bài tập 2 + Bài tập 3 Trong mỗi bài tập lại có các câu hỏi nhỏ theo thứ tự a, b, c Ví dụ, cấu trúc bài tập làm văn tuần 1 (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 12) : 7.3.Sách Tiếng Việt 3 7.3.1.Các đơn vị học: -Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 gồm 2 tập, có 15 đơn vị học, mỗi đơn vị học trong 2 tuần gắn với một chủ điểm: -Tập I gồm 8 chủ điểm sau: + Tuần 1, 2 : Măng non (thiếu nhi) + Tuần 3, 4 : Mái ấm (gia đình) + Tuần 5, 6 : Tới trường (trường học) + Tuần 7, 8 : Cộng đồng (sống với những người xung quanh) + Tuần 9 :Ôn tập giữa kì I. + Tuần 10, 11 : Quê hương + Tuần 12, 13 : Bắc – Trung – Nam ( các vùng miền trên đất nước) + Tuần 14, 15 :Anh em một nhà (các dân tộc trên đất nước ta) + Tuần 16, 17 : Thành thị – Nông thôn + Tuần 18 : Ôn tập cuối kì I 31
  32. -Tập II gồm 7 chủ điểm sau: + Tuần 19, 20 :Bảo vệ Tổ quốc + Tuần 21, 22 :Sáng tạo (hoạt động khoa học, tri thức ) + Tuần 23, 24 :Nghệ thuật + Tuần 25, 26 :Lễ hội + Tuần 27 : Ôn tập giữa kì II + Tuần 28, 29 : Thể thao + Tuần 30, 31 : Ngôi nhà chung ( các nước, một số vấn đề trên hoàn cầu, hoà bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường ) + Tuần 33, 34 : Bầu trời và mặt đất ( các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ trụ ) + Tuần 35 : Ôn tập cuối kì II -Cấu trúc của một đơn vị học: học trong 2 tuần, mỗi tuần học 8 tiết, gồm: Tuần thứ nhất : + Tập đọc + Kể chuyện (2 tiết) : một truyện kể + Chính tả : ( 1 tiết ) + Tập đọc : (01 tiết ) : một văn bản thơ hoặc văn bản thông thường + Luyện từ và câu : (01 tiết ) + Tập viết (01 tiết ) + Chính tả (01 tiết ) + Tập làm văn : (01 tiết ) Tuần thứ 2 : + Tập đọc + Kể chuyện (2 tiết) : một truyện kể + Chính tả : ( 1 tiết ) + Tập đọc : (01 tiết ) : một văn bản thơ hoặc văn bản miêu tả + Luyện từ và câu : (01 tiết ) 32
  33. + Tập viết (01 tiết ) + Chính tả (01 tiết ) + Tập làm văn : (01 tiết ) 7.3.2.Các phân môn trong sách Tiếng Việt 3: 7.3.2.1.Phân môn Tập đọc -Mỗi tuần học 2 bài tập đọc (2,5 tiết / tuần). -Nội dung : + Rèn kĩ năng đọc, nghe , nói. + Cung cấp cho HS hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người; vốn từ, diễn đạt, hiểu biết về TPVH ( đề tài, cốt truyện, nhân vật), rèn nhân cách 7.3.2.2.Phân môn Kể chuyện -Dạy tích hợp trong bài tập đọc đầu tuần (trong bài tập đọc 02 tiết, dành 0,5 tiết cuối bài để dạy kể chuyện). Ngoài ra kể chuyện còn được dạy trong phân môn Tập làm văn. -Nội dung : Kể lại chuyện (đã học Tập đọc), bài tập tập làm văn. 7.3.2.3.Phân môn Luyện từ và câu -Số bài, thời lượng học: 31 bài, 31 tiết. Mỗi tuần học 01 tiết. -Nội dung : + Cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. + Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết, đọc ). 7.3.2.4.Phân môn Chính tả -Số bài, thời lượng học :31 bài, 31 tiết. Mỗi tuần học 02 tiết. -Nội dung : + Rèn kĩ năng viết, nghe, đọc. + Làm bài tập chính tả, rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. + Cung cấp vốn từ, hiểu biết về đời sống. 7.3.2.5.Phân môn Tập viết 33
  34. -Số bài, thời lượng học: 31 bài, 31 tiết. Mỗi tuần học 01 tiết gồm 01 bài viết tại lớp và 01 bài viết ở nhà (4 tuần ôn tập giữa, cuối kì có 4 bài luyện ở nhà). -Nội dung : + Rèn kĩ năng viết chữ, trọng tâm: luyện viết chữ hoa + Giúp HS hiểu thêm về nhân vật lịch sử, địa danh, tích luỹ vốn tục ngữ, ca dao, vốn sống. 7.3.2.6.Phân môn Tập làm văn -Số bài, thời lượng học: 31 bài, 31 tiết. Mỗi tuần học 01 tiết. -Nội dung : + Rèn cả 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc, viết + Dạy kĩ năng giao tiếp: viết thư, đơn, khai giấy tờ, hội họp 7.4. Sách Tiếng Việt 4: 7.4.1.Các đơn vị học: Tập 1: gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần . Tuần Chủ điểm 1, 2, 3 Thương người như thể thương thân (nhân ái) 4, 5, 6 Măng mọc thẳng (trung thực, tự trọng) 7, 8, 9 Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ) 10 Ôn tập giữa học kì I 11, 12, 13 Có chí thì nên (nghị lực) 14, 15, 16, 17 Tiếng sáo diều (vui chơi) 18 Ôn tập cuối học kì I Tập 2: gồm 5 chủ điểm học trong 17 tuần. Tuần Chủ điểm 19, 20, 21 Người ta là hoa đất (năng lực, tài trí) 22, 23, 24 Vẽ đẹp muôn màu (óc thẫm mĩ) 34
  35. 25, 26, 27 Những người quả cảm (dũng cảm) 28 Ôn tập giữa kì II 29, 30, 31 Khám phá thế giới (du lịch thám hiểm) 32, 33, 34 Tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời) 35 Ôn tập cuối học kì II 7.4.2.Các phân môn Tiếng Việt 4: 7.4.2.1.Phân môn tập đọc: Rèn cho HS các kĩ năng : đọc, nghe và nói theo chủ điểm. Khác với các lớp dưới, tập đọc lớp 4 tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (đề tài, cốt truyện, nhân vật,. . .)góp phần rèn luyện nhân cách cho HS . Luyện đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu đọc diễn cảm. Câu hỏi tìm hiểu bài chú ý khai thác nghệ thuật biểu hiện nhiều hơn. 7.4.2.2.Phân môn kể chuyện: Rèn kĩ năng : nói, nghe và đọc. HS không kể lại những câu chuyện vừa được học trong bài tập đọc như lớp 2,3 mà tập kể những câu chuyện được nghe GV kể trên lớp hoặc được nghe, được đọc, được chứng kiến, tham gia trong đời sống hàng ngày phù hợp với chủ điểm đang học . 7.4.2.3.Phân môn luyện từ và câu: Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và rèn luyện các kĩ năng dùng từ đặt câu (nói, viết), rèn kĩ năng đọc cho HS. Khác với các lớp dưới, ở lớp 4 có những tiết học riêng để trang bị kiến thức cho HS. 7.4.2.4.Phân môn chính tả: Rèn các kĩ năng : viết, nghe và đọc. Nhiệm vụ của HS là làm các bài tập chính tả đoạn, bài (nghe viết hoặc nhớ viết) bài tập chính tả âm, vần. Bài tập chính tả ngoài việc rèn kĩ năng viết, nghe và đọc còn cung cấp cho HS một số vốn từ, vốn hiểu biết khác nhau của đời sống. 7.4.2.5 Phân môn tập làm văn : Rèn 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết ngoài ra còn dạy các kĩ năng kể chuyện và miêu tả đồ vật, cây cối, con vật; rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi và rèn kĩ năng viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn (giống lớp 3). 7.5. Sách Tiếng Việt 5: 7.5.1.Các đơn vị học Tập 1: gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần . 35
  36. Tuần chủ điểm 1,2,3 Việt Nam - Tổ quốc em 4.5,6 Cánh chim hoà bình 7,8,9 Con người với thiên nhiên 10 Ôn tập giữa học kì I 11,12,13 Giữ lấy màu xanh 14,15,16,17 Vì hạnh phúc con người 18 Ôn tập cuối học kì I Tập 2 : gồm 5 chủ điểm học trong 17 tuần Tuần 19,20,21 Người công dân 22,23,24 Vì cuộc sống thanh bình 25,26,27 Nhớ nguồn 28 Ôn tập giữa kì II 29,30,31 Nam và nữ 32,33,34 Những chủ nhân tương lai 35 Ôn tập cuối học kì II 7.5.2. Các phân môn Tiếng Việt 5 7.5 2.1 Phân môn Tập đọc : Rèn cho HS các kĩ năng : đọc , nghe và nói theo chủ điểm. Trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (đề tài , cốt truyện, nhân vật,. . .) góp phần rèn luyện nhân cách cho HS . Luyện đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu biểu cảm . Câu hỏi tìm hiểu bài chú ý khai thác hàm ý và nghệ thuật biểu hiện nhiều hơn. 7.5.2.2 Phân môn Kể chuyện : 36
  37. Rèn kĩ năng : nói, nghe và đọc. HS không kể lại những câu chuyện vừa được học trong bài tập đọc như lớp 2,3 mà tập kể những câu chuyện được nghe GV kể trên lớp hoặc được nghe, được đọc, được chứng kiến, tham gia trong đời sống hàng ngày phù hợp với chủ điểm đang học . 7.5 2.3 Phân môn Luyện từ và câu : Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về TV và rèn luyện các kĩ năng dùng từ đặt câu (nói, viết), rèn kĩ năng đọc cho HS. Khác với các lớp dưới, ở lớp 4,5 có những tiết học riêng để trang bị kiến thức cho HS . 7.5.2.4 Phân môn Chính tả : Rèn các kĩ năng : viết, nghe và đọc. Nhiệm vụ của HS là làm các bài tập chính tả đoạn, bài (nghe viết hoặc nhớ viết) bài tập chính tả âm, vần, chính tả viết hoa, chính tả dấu thanh . Bài tập chính tả ngoài việc rèn kĩ năng viết, nghe và đọc còn cung cấp cho HS một số vốn từ, vốn hiểu biết khác nhau của đời sống. 7.5.2.5 Phân môn tập làm văn : Rèn 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết ngoài ra còn dạy các kĩ năng kể chuyện và miêu tả người, tả cảnh vật; rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi , làm báo cáo thống kê, viết biên bản, lập chương trình hoạt động và rèn kĩ năng viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn ( giống lớp dưới ) 37
  38. Chương 4 CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC A.MỤC TIÊU 1. Kiến thức - Sinh viên nắm các khái niệm nguyên tắc, phương pháp dạy học Tiếng Việt. - Nắm các nguyên tắc, phương pháp đặc trưng trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. 2. Kĩ năng - Phân tích, đánh giá các nguyên tắc , các phương pháp được vận dụng trong thực tiễn dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. - Biết vận dụng các nguyên tắc, các phương pháp vào thiết kế bài soạn và tổ chức thực hiện dạy các phân môn Tiếng Việt. B. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Phân tích nội dung các nguyên tắc, các phương đặc trưng trong dạy Tiếng Việt ở tiểu học. 2. Mô tả, phân tích một thực tiễn dạy học (các trích đoạn giờ dạy hoặc một tiết dạy) để làm rõ sự vận dụng các nguyên tắc, các phương pháp đặc trưng trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 3. Chọn một nội dung dạy học Tiếng Việt (ví dụ: Nêu tên một bài dạy Luyện từ và câu) thiết kế bài soạn sao cho đảm bảo nguyên tắc giao tiếp hoặc tư duy. 4. Thực hành tổ chức một hoạt động giao tiếp cho HS trong giờ học Tiếng Việt 5. Thực hiện theo nhóm (đóng vai) tổ chức thực hiện các bài tập vận dụng phương pháp giao tiếp, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn luyện theo mẫu. C. NỘI DUNG 1. Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1.1. Khái niệm về nguyên tắc: Theo Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1977), nguyên tắc được hiểu theo các nghĩa sau: 38
  39. - Kết quả nghiên cứu có tính chất lí thuyết, dẫn đường và qui định giới hạn cho thực hành (ví dụ: nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt Tiểu học). - Điều thoả thuận lưu truyền hoặc thành văn, dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội, chính trị (ví dụ: nguyên tắc chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau). 1.2. Khái niệm nguyên tắc dạy học Tiếng Việt: Là những tiền đề lí thuyết cơ bản xác định nội dung và phương pháp, cách tổ chức các hoạt động dạy và học Tiếng Việt của thầy giáo và học sinh, nhằm đạt mục đích dạy học Tiếng Việt trong nhà trường (theo giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt”, Lê A , Nhà xuất bản giáo dục, 1997). 1.3. Các nguyên tắc dạy Tiếng Việt ở tiểu học 1.3.1. Nguyên tắc phát triển tư duy Ngôn ngữ và tư duy của con người là hai phạm trù có mối liên hệ mật thiết, có sự tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là tiền đề và là điều kiện để tư duy phát triển và ngược lại. Mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học. Mục tiêu đầu tiên của việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học là góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, phát triển tư duy cho học sinh. Điều này được thực hiện thông qua quá trình dạy học Tiếng Việt, quá trình học sinh từng bước chiếm lĩnh Tiếng Việt văn hoá. Nói cách khác, cùng với quá trình dạy học Tiếng Việt, đồng thời ở học sinh cũng hình thành và phát triển các thao tác tư duy, các phẩm chất tư duy. Để phát triển tư duy gắn liền với phát triển ngôn ngữ cho học sinh, trong dạy học Tiếng Việt, người giáo viên cần chú ý các yêu cầu cụ thể: -Trong mọi giờ học đều phải chú ý rèn các thao tác tư duy. Đó là các thao tác phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp Đồng thời phải chú ý rèn luyện cho các em phẩm chất tư duy nhanh, chính xác và tích cực -Phải làm cho HS thông hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. -Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm được nội dung các vấn đề cần nói và viết trong môi trường giao tiếp cụ thể và biết thể hiện nội dung này bằng các phương tiện ngôn ngữ. 1.3.2. Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói) Hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc trưng của việc dạy học Tiếng Việt. Để hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh phải được hoạt động trong các môi trường giao tiếp cụ thể, đặc biệt là môi trường văn hoá ứng xử. Chỉ có trong các môi trường giao tiếp, môi trường văn hoá ứng xử, học sinh mới hiểu lời nói của người khác, đồng thời vận dụng ngôn ngữ sáng tạo để người khác hiểu được tư tưởng và tình cảm của các em. Bởi lẽ, ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Thông qua các bài tập thực hành đơn giản như giới thiệu về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè 39
  40. theo mục đích nhất định, học sinh được luyện tập về các kĩ năng ứng xử trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Nguyên tắc này yêu cầu - Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục đích, tức là hướng vào hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS. - Xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đưa chúng vào các đơn vị lớn hơn. Ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu như thế nào, câu ở trong đoạn trong bài ra sao. - Phải tổ chức hoạt động nói năng của HS để dạy Tiếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở tiểu học. 1.3.3. Nguyên tắc chú ý tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh Nguyên tắc này yêu cầu : - Dạy Tiếng Việt phải chú ý đặc điểm tâm lí HS, đặc biệt là bước chuyển khó khăn từ hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. - Việc học Tiếng Việt phải dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về trình độ tiếng mẹ đẻ vốn có của HS. Khác với học các môn học khác, học Tiếng Việt, học sinh tiếp xúc với một đối tượng quen thuộc gắn bó với cuộc sống hàng ngày của các em. Trước khi vào học ở nhà trường, học sinh đã sử dụng Tiếng Việt với hai loại hoạt động nói và nghe, các em đã có một vốn từ nhất định, làm quen với một số quy luật tạo lập lời nói Tiếng Việt một cách tự phát. Do vậy, yêu cầu thứ nhất khi dạy học Tiếng Việt là phải chú ý đến trình độ vốn có của học sinh từng lớp, từng vùng miền khác nhau để định nội dung, kế hoạch và phương pháp dạy học. Yêu cầu thứ hai là phải phát huy tính chủ động của học sinh trong giờ học Tiếng Việt. Giáo viên cần phải tạo điều kiện để học sinh hình thành lời nói hoàn chỉnh của mình trong các cuộc hội thoại, trong các hình thức học tập khác nhau: cá nhân, nhóm, lớp 1.3.4. Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả hai hình thức lời nói dạng viết và dạng nói Nói và viết là hai dạng lời nói có quan hệ chặt chẽ trong việc hoàn thiện trình độ sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Lời nói dạng nói là cơ sở để hoàn thiện lời nói dạng viết. Lời nói dạng viết là điều kiện để lời nói dạng nói phát triển. Do vậy, dạy học Tiếng Việt ở tiểu học phải chú ý rèn luyện cả hai dạng lời nói trên. 1.3.5. Nguyên tắc tích hợp: Mục tiêu môn Tiếng Việt ở tiểu học có tính chất phức hợp thể hiện ở chỗ môn Tiếng Việt vừa hình thành cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói), vừa cung cấp tri thức (gồm tri thức về Tiếng Việt và tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội). Cho nên dạy Tiếng Việt ở tiểu học phải bảo đảm nguyên tắc tích hợp. 40
  41. Chương trình dạy Tiếng Việt ở tiểu học có các dạng tích hợp sau: -Tích hợp trong nội bộ môn Tiếng Việt. Đó là sự kết hợp dạy các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói trong từng bài học với dạy các tri thức đơn giản về Tiếng Việt. -Tích hợp nội dung các môn học khác vào môn Tiếng Việt thể hiện ở: Ngữ liệu dùng trong các bài học đã góp phần cung cấp các tri thức về tự nhiên và xã hội cho học sinh. Đồng thời, bài học của các môn học khác cũng có ngữ liệu để dạy Tiếng Việt và được coi là những tình huống để rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Thông qua các bài học, thông qua việc thảo luận trong nhóm, trong lớp về nội dung những bài học ấy, học sinh được mở rộng vốn từ, học được cách diễn đạt bằng Tiếng Việt và các quy tắc sử dụng Tiếng Việt theo các phong cách chức năng khác nhau. Học sinh có nhiều cơ hội để ứng xử bằng Tiếng Việt thích hợp với các ngữ cảnh khác nhau. 1.3.6. Nguyên tắc kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học Về bản chất, kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học là một phương hướng tích hợp trong dạy Tiếng Việt ở tiểu học. Vận dụng nguyên tắc này, việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học được định hướng như sau: -Ngoài những ngữ liệu khác, ngữ liệu để dạy Tiếng Việt (các văn bản dạy Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu ) được lựa chọn từ những tác phẩm văn học. Trong số các bài có ngữ liệu là văn bản văn học, tỉ lệ bài thuộc thể loại văn xuôi cao hơn các thể loại khác. Đó là các bài có nội dung văn học, văn hoá Việt Nam và thế giới. -Trong quá trình dạy Tiếng Việt cần từng bước cho học sinh nhận biết cái chân, cái thiện, cái mĩ của văn học thông qua việc nhận biết giá trị thẩm mĩ của các yếu tố ngôn ngữ trong bài văn. Những nhận biết và cảm xúc đó sẽ là cơ sở ban đầu của việc học văn ở bậc trung học sau này của học sinh. -Nhờ dạy Tiếng Việt tích hợp với dạy văn, học sinh được làm quen với một số thuật ngữ (như tác phẩm, tác giả, nhân vật; thể loại tục ngữ, câu đố, ca dao, thơ, truyện ), được rèn luyện các kĩ năng cơ bản (như kể chuyện, tóm tắt chuyện, tìm đại ý, bố cục, nhận xét về nhân vật, về tác giả, tác phẩm, nêu cảm nghĩ, liên tưởng, phát hiện các biện pháp tu từ, phát hiện các chi tiết nghệ thuật ). 1.3.7. Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và hình thức dạy học tích cực Nguyên tắc này thể hiện: -Kế thừa và phát huy những phương pháp và hình thức dạy học phát huy tính tích cực của người học đã được vận dụng trong dạy học Tiếng Việt từ lâu nay. -Đưa vào những yếu tố mới (những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới) để giúp người học phát huy được tính tích cực trong học tập. -Tiếp thu và vận dụng một số phương pháp và hình thức dạy học tích cực đã đạt được nhiều thành tựu ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 41
  42. Theo nguyên tắc này, việc dạy học Tiếng Việt phải thể hiện tinh thần chung là hướng vào việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Hoạt động học tập Tiếng Việt của học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp, hoạt động trí tuệ được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành động cụ thể có thể quan sát được, lượng hoá được (ví dụ, hoạt động tìm tòi phát hiện kiến thức, thảo luận, tranh luận, trò chơi học tập ). -Về hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp mới: + Hoạt động giao tiếp ( đặc thù của môn Tiếng Việt). + Hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lí thuyết (như các môn học khác). Các hình thức tổ chức dạy học: Học sinh làm việc độc lập, theo nhóm, theo lớp. -Về hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp mới: + Giao việc cho học sinh : Cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi. Cho học sinh làm mẫu một phần bài tập. Cho học sinh tóm tắt nhiệm vụ học tập, dặn dò học sinh thực hiện bài tập. + Kiểm tra học sinh: Xem học sinh có làm việc không. Xem học sinh có hiểu công việc phải làm không. Trả lời thắc mắc của học sinh . + Tổ chức báo cáo kết quả làm việc của học sinh: báo cáo với giáo viên, trong nhóm, trước lớp (bằng miệng, bảng con, phiếu học tập, bằng giấy ) + Tổ chức cho học sinh đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn. Hình thức đánh giá có thể là: cá nhân, trong nhóm, trước lớp (giáo viên khen, chê, cho điểm ). 2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2.1. Khái niệm phương pháp dạy- học Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và cách thức làm việc của trò trong môi trường giáo dục nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học đặt ra. Theo quan niệm trên thì hoạt động học tập của trò là bình diện chủ yếu được thể hiện trong giờ học. Môi trường giáo dục gồm: cuộc sống của cộng đồng, môi trường sư phạm của nhà trường, những phương tiện phục vụ cho việc dạy và việc học Để cho học sinh học tập tích cực, chủ động và được môi trường hỗ trợ cho việc học một cách tối ưu thì hoạt động của thầy phải là hoạt động có vai trò hướng dẫn. Chính hoạt động của thầy sẽ tổ chức ra các hoạt động học tập cho học sinh, sẽ vận hành môi trường tham gia một cách có hiệu quả vào việc 42
  43. tìm kiếm, phát hiện, vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh, phương pháp dạy học hiểu theo cách này sẽ tạo ra những giờ học không chỉ có giao tiếp một chiều: thầy phát – trò nhận, thầy yêu cầu – trò làm theo, mà còn có giao tiếp nhiều chiều: thầy – trò, trò – thầy, trò – trò. Nó tạo ra những giờ học có sự hợp tác tốt giữa thầy và trò và giữa những người học với nhau, khiến cho việc học tập trong trường gần với việc lao động ở cộng đồng, tạo cho người học nhiều cơ hội để vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. 2.2. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt 2.2.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ Phân tích ngôn ngữ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phát hiện ra các hiện tượng ngôn ngữ nhất định từ các ngữ liệu để phát hiện ra những đặc trưng của chúng. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng trong tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học. Tuỳ thuộc mức độ và mục đích phân tích mà phương pháp phân tích ngôn ngữ có thể tiến hành theo các mức độ khác nhau như: quan sát ngôn ngữ (là giai đoạn đầu trong quá trình phân tích ngôn ngữ nhằm tìm những điểm giống và khác nhau và sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định), phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp, phân tích chính tả, phân tích tập viết, phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn chương Tất cả các dạng phân tích ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của nhiều bài tập khác nhau: bài tập tập đọc, tập viết, chính tả, luyện nói và viết. 2.2.2. Phương pháp rèn luyện theo mẫu Rèn luyện theo mẫu trong dạy học Tiếng Việt là phương pháp giáo viên hướng dẫn cho học sinh dựa theo mẫu lời nói đã được sách giáo khoa xây dựng hoặc mẫu của giáo viên để giải quyết các bài tập, rèn kĩ năng hoặc tạo ra mẫu lời nói của chính mình. Phương pháp rèn luyện theo mẫu được ứng dụng trong tất cả các phân môn Tiếng Việt ở tiểu học. Học sinh có thể dựa theo các mẫu của sách giáo khoa, của giáo viên để rèn luyện về chữ viết, luyện về phát âm, luyện đọc, giải nghĩa từ, đặt câu, viết đoạn văn Để thực hiện phương pháp, giáo viên cần tuân thủ quy trình sau: -Giáo viên cung cấp mẫu lời nói hoặc cho học sinh đọc mẫu trong sách giáo khoa (nếu có). -Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu để nắm được bản chất, cách tạo mỗi loại mẫu. -Học sinh mô phỏng tạo ra lời nói của mình. -Giáo viên tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả và tự đánh giá kết quả thực hiện lời nói của mình và của bạn. Ví dụ: Dạy bài tập số 1, tiết Tập làm văn (Tiếng Việt 2, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, trang 54) với yêu cầu: “Trả lời câu hỏi bằng hai cách theo mẫu: a) Em có đi xem phim không 43
  44. ?; b) Mẹ có mua báo không ? ; c) Em có ăn cơm bây giờ không ?”. Sách giáo khoa đã có sẵn mẫu sau: “M: -Em có thích đọc thơ không ? -Có, em rất thích đọc thơ. -Không, em không thích đọc thơ”. Giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh dựa vào mẫu để trả lời các yêu cầu của câu hỏi a, b, c theo hai cách như trên 2.2.3. Phương pháp giao tiếp Phương pháp giao tiếp là phương pháp giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng những tri thức sơ giản đã học vào việc thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp cụ thể bằng Tiếng Việt. Thực hiện phương pháp giao tiếp, giáo viên cần: -Tạo các tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp ở học sinh. -Giúp học sinh định hướng hoạt động giao tiếp nói hoặc viết của mình như: nói, viết cho ai; nói, viết về cái gì; nói, viết trong hoàn cảnh nào -Hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt của mình để tạo ra lời nói, viết hoàn chỉnh trong giao tiếp. -Hướng dẫn học sinh đánh giá, nhận xét, bổ sung cho hoàn thiện Ví dụ: Dạy bài tập 1 “Kể lại một trận thi đấu thể thao”, tiết Tập làm văn tuần 28 (sách Tiếng Việt 3, tập 2, trang 88), giáo viên có thể dựa vào các câu hỏi gợi ý ở sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh có thể kể về một buổi thi đấu thể thao các em đã tận mắt nhìn thấy trên sân vận động, sân trường hoặc trên ti vi; cũng có thể kể về một buổi thi đấu các em nghe tường thuật trên đài phát thanh, nghe qua người khác hoặc đọc trên sách, báo Kể dựa theo gợi ý nhưng không nhất thiết phải theo sát gợi ý, có thể linh hoạt thay đổi trình tự các gợi ý 2.2.4. Phương pháp trò chơi học tập Trò chơi là một hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh. Thông qua các trò chơi, học sinh được luyện tập làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và với tinh thần hợp tác. Cùng với những hình thức học tập khác, trò chơi tạo cơ hội để học sinh học bằng tự hoạt động: tự củng cố kiến thức và tự hoàn thiện kĩ năng. Trò chơi phải đáp ứng được các yêu cầu sau: -Mục đích của trò chơi phải hướng vào việc củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng ở từng bài, từng nhóm bài, từng phần của chương trình. -Nội dung chơi là một đơn vị kiến thức, một số thao tác của một kĩ năng hay của nhiều đơn vị kiến thức. 44
  45. -Hình thức của trò chơi phải đa dạng giúp cho học sinh luôn được thay đổi cách thức hoạt động trong lớp, phối hợp được nhiều cơ quan vận động và các giác quan tham gia hoạt động cùng một lúc để các em học tập một cách linh hoạt và hứng thú. -Cách chơi cần đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Mỗi trò chơi cần thu hút nhiều học sinh tham dự. -Điều kiện để tổ chức trò chơi cần đơn giản, phương tiện để chơi dễ làm, giáo viên có thể tự chuẩn bị và tự tổ chức ngay trong phòng học. -Có nhiều loại hình trò chơi để học Tiếng Việt, chẳng hạn: + Ở lớp 1, phần học âm, vần, học sinh có thể học bằng các trò chơi: *Tô chữ trên tranh: để nhận mặt chữ ghi âm, vần mới và đọc tiếng chứa âm (vần) mới học. *Trò chơi cờ (hoặc Đôminô): Giúp học sinh đọc và viết chữ ghép được trên bàn cờ để học ghép tiếng có âm, vần mới và tìm nghĩa của từ. *Trò chơi đi tìm lời thơ: để luyện ghép tiếng nhanh và chọn từ có nghĩa phù hợp với việc diễn đạt chính xác ý câu thơ. *Trò chơi nhìn ra xung quanh để tìm nhanh các tiếng chứa tiếng có âm, vần mới. *Trò chơi viết thư trong nhóm: giúp học sinh tập dùng từ chứa âm, vần mới và tạo ra lời nói + Ở lớp 2 và lớp 3 có thể tổ chức các trò chơi: *Trò chơi đọc nhanh thuộc giỏi và đọc thơ truyền điện: nhằm giúp học sinh học thuộc lòng nhanh. *Trò chơi thì tìm từ, tiếng mở đầu bằng chữ cái: giúp học sinh học các quy tắc chính tả. *Trò chơi đóng vai: giúp học sinh học nói các nghi thức lời nói (chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời; đáp lời chào, cám ơn ). Chú ý: Không được lạm dụng phương pháp chơi để học trong dạy Tiếng Việt. Tùy vào yêu cầu, nội dung của bài học mà giáo viên có thể tổ chức một hoặc hai trò chơi cho một bài học, cũng sẽ có những bài học không có trò chơi. Việc tổ chức hoạt động chơi để học trong giờ học cần được giáo viên cân nhắc kĩ để điều hòa với các hoạt động khác. 2.2.5. Phương pháp thảo luận nhóm -Phương pháp thảo luận nhóm có tác dụng hình thành ở học sinh khả năng giao tiếp, khả năng hợp tác, khả năng thích ứng và khả năng độc lập suy nghĩ. -Hình thức thảo luận có thể dùng ở nhiều loại bài thuộc nhiều nội dung học tập. 45
  46. Ví dụ, có thể dùng trong khi dạy tập đọc (phần tìm hiểu nội dung bài), đặc biệt là ở những yêu cầu về suy luận, phán đoán ý từ một bài đọc cụ thể, hoặc nhận xét về một chi tiết, ý tưởng nào đó trong bài đọc. Có thể dùng thảo luận để xây dựng dàn ý cho một bài viết; thảo luận để đưa ra lời nói (miệng hoặc viết) đáp ứng với một tình huống giao tiếp cụ thể được đặt ra cho mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm học sinh. -Quy mô thảo luận: có thể là nhóm nhỏ (2 – 4 học sinh), nhóm lớn (khoảng 10 học sinh), cả lớp. -Để thảo luận nhóm thành công, giáo viên phải có một hệ thống câu hỏi gợi ý. Đây là các điểm tựa để học sinh dựa vào đó mà thảo luận, thực hiện yêu cầu của bài học. Nội dung các câu hỏi cần hướng vào sự khai thác kinh nghiệm, cách nghĩ của học sinh, khuyến khích từng học sinh tham gia một cách tự tin vào hoạt động thảo luận. Giáo viên cần phân biệt điều hành thảo luận theo hệ thống câu hỏi khác với việc yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi trong phương pháp vấn đáp. Những câu hỏi gợi ý trong các cuộc thảo luận không phải lúc nào cũng chỉ có một câu trả lời duy nhất đúng. Những câu trả lời hướng về yêu cầu của bài học, đáp ứng được từng phần yêu cầu của bài học đều được chấp nhận. Cuối mỗi cuộc thảo luận, giáo viên phải tổng kết các ý kiến của học sinh đã đóng góp thành một ý kiến đúng, đầy đủ, có tính thuyết phục. Ví dụ: Khi thực hiện bài tập số 3 (Bài chính tả ở tuần 25, Tiếng Việt 2, tập 2), giáo viên có thể chia nhóm nhỏ cho học sinh thảo luận theo 2 câu hỏi gợi ý: 1) Những từ nào trái nghĩa với từ “khó” ? (dễ, giàu, đơn giản ). Những từ nào chỉ vật dùng để viết chữ ? (bảng, vở, giấy, đất, sân ) 2) Chọn trong số các từ đó một hoặc một vài từ bắt đầu bằng: gi, d, r Sau khi học sinh đưa ra các câu trả lời, giáo viên cần chốt lại bằng câu trả lời chung: Những từ các em nêu ra đều đúng với yêu cầu về nghĩa, song để đáp ứng yêu cầu về chữ viết của các từ đó nêu trong bài tập, chúng ta chỉ chọn trong số các từ tìm được những từ bắt đầu bằng các chữ d, gi, r (dễ, giàu, giấy ). 2.2.6. Phương pháp dạy học nêu vấn đề Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp tích cực nhằm chuẩn bị trực tiếp cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề, khả năng thích ứng và khả năng hợp tác. Có thể sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong tất cả các loại bài của môn Tiếng Việt, đặc biệt là các bài có yêu cầu thực hành kĩ năng nói, viết văn bản; nói các nghi thức lời nói. Hai điều kiện cần thiết để thực hiện phương pháp dạy học nêu vấn đề là: -GV phải tạo ra được tình huống có vấn đề trong quá trình học sinh chiếm lĩnh tri thức hoặc rèn luyện kĩ năng. Tình huống có vấn đề được tạo ra từ ba yếu tố cơ bản: + Một là, mục đích của kiến thức hoặc kĩ năng cần trang bị. 46
  47. + Hai là, nhu cầu nắm kiến thức hoặc kĩ năng đó của học sinh. + Ba là, dự báo khả năng nắm được kiến thức hoặc kĩ năng đó của học sinh. Để đưa ra được tình huống có vấn đề, giáo viên phải cho học sinh biết: Trong bài học này, các em có điều gì chưa biết ? Các em có mong muốn khám phá điều chưa biết đó và đưa nó vào vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân không ? -Giáo viên phải giúp học sinh tìm ra được các việc làm cụ thể, thứ tự của các việc làm đó để giải quyết được vấn đề đã đặt ra và hoàn thành nhiệm vụ của bài học. Một ví dụ về phương pháp dạy học nêu vấn đề: Phần thứ nhất của bài Tập làm văn tuần 24 (sách Tiếng Việt 2, tập 2) mục tiêu của phần này là học sinh biết đáp lời đồng ý. Giáo viên thực hiện phương pháp này như sau: -Giáo viên tạo tình huống có vấn đề: + Yêu cầu 2 học sinh đóng vai: Em thứ nhất vai người xin phép hoặc nhờ vả em kia một việc nào đó, em thứ hai đóng vai người nói lời đồng ý (với lời xin phép hoặc nhờ vả của người thứ nhất). Giáo viên hướng dẫn các học sinh khác quan sát xem sau khi học sinh thứ hai nói lời đồng ý thì học sinh kia có đáp lại lời đồng ý không ? Kết quả quan sát có thể là không có lời đáp lại lời đồng ý. + Yêu cầu các học sinh khác nhận xét xem bạn chưa đáp lại lời đồng ý như vậy có lịch sự không ? Các bạn khác khi gặp trường hợp được người khác nói lời đồng ý có muốn đáp lại không ? + Khi xin phép hoặc đề nghị, nhờ vả ai việc gì, nếu người đó đồng ý tức là đã giúp đỡ ta, ta phải đáp lại lời đồng ý như thế nào ? -Giáo viên giúp học sinh tìm ra các việc làm để giải quyết vấn đề đặt ra ở trên: + Nói lời cảm ơn. + Nếu khi nói lời đồng ý, người kia còn yêu cầu ta điều gì thì ta phải nói lời đáp lại lời yêu cầu đó sau khi đã nói lời cảm ơn 2.2.7. Phương pháp dạy học ngoài không gian lớp học Dạy học ngoài không gian lớp học là sử dụng không gian sư phạm của trường, sử dụng môi trường sống sôi động của cộng đồng làm phương tiện dạy những nội dung học tập chính khoá. Nội dung dạy học ở ngoài lớp phải được giáo viên soạn thành các nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể gửi đến học sinh và phải hướng dẫn học sinh cách làm để thực hiện các nhiệm vụ được giao. 47
  48. Ví dụ: Trong giờ quan sát và tìm ý cho bài văn tả cảnh (đề bài tả cảnh trường), giáo viên có thể chia nhóm, mỗi nhóm học sinh nhận một nhiệm vụ quan sát một phần cảnh: nhóm quan sát cổng trường, nhóm quan sát sân trường, nhóm quan sát các phòng học, nhóm quan sát hoạt động của học sinh trong giờ ra chơi Nhiệm vụ của từng nhóm được giáo viên ghi rõ trên một phiếu học như: Ghi lại những cảnh vật em thấy (hình dáng, màu sắc và một đặc điểm nổi bật của mỗi cảnh vật), một vài hình ảnh được tạo ra bằng các biện pháp so sánh, ẩn dụ hoặc nhân hoá 48
  49. PHẦN II PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC PHÂN MÔN Chương V PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẦN A. MỤC TIÊU Giúp sinh viên nắm vững: - Mục tiêu, nhiệm vụ dạy học vần. - Cơ sở khoa học dạy học vần - Nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa học vần. - Tổ chức dạy học vần: phương pháp, biện pháp, hình thức, quy trình dạy học vần. - Biết vận dụng lí thuyết vào việc thiết kế giáo án và tập dạy các dạng bài học vần. B. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Sinh viên đọc các tài liệu tham khảo tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề sau: 1. Phân tích mục tiêu, nhiệm vụ dạy học học vần ( dựa vào các nguồn: Tài liệu bồi dưỡng GV cốt cán cấp tỉnh, thành phố triển khai chương trình, sách giáo khoa lớp 1 môn Tiếng Việt; sách giáo viên Tiếng Việt 1, tập 1.) 2. Phân tích cơ sở khoa học dạy học vần: cơ sở tâm lí học; cơ sở ngôn ngữ học. 3. Tìm hiểu, nhận xét chương trình (số tuần học, tống số bài; số bài, số tiết/ tuần; các yêu cầu về kĩ năng đọc, viết, nghe ,nói). 4. Tìm hiểu về sách giáo khoa Học vần: - Sách giáo khoa Tiếng Việt 1, phần Học vần có thể chia làm mấy phần cơ bản? Mỗi phần từ bài nào đến bài nào? Gồm những nội dung gì? - Phần học vần có thể chia làm mấy dạng bài? Đó là những dạng bài nào? - Cấu trúc mỗi bài học có những nội dung gì? Nội dung gì cần chú ý? - Câu trúc bài ôn tập gồm những nội dung gì? Nội dung gì cần chú ý? 5. Tìm hiểu việc tổ chức dạy các dạng bài học vần gồm các nội dung sau: - Các phương pháp chung dạy học vần. 49
  50. - Các biện pháp, hình thức day học vần. - Quy trình dạy các dạng bài cụ thể: + Dạng bài làm quen với âm và chữ. + Dạng bài dạy âm, vần mới. + Dạng bài Ôn tập âm, vần. 6. Thiết kế giáo án và tạp dạy, tập rút kinh nghiệm giờ dạy theo 3 dạng bài trên. C. NỘI DUNG: I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ DẠY HỌC VẦN: 1. Vị trí của môn học vần Mục tiêu dạy học vần là dạy tiếng Việt văn hoá cho trẻ em ở độ tuổi đi học trên khắp các miền, vùng của đất nước với yêu cầu dạy chữ (đọc, viết) trên cơ sở phát triển và hoàn thiện các kĩ năng khác (nghe, nói). Chính vì vậy môn học vần có vị trí quan trọng ở tiểu học , là phân môn mở đầu của lớp đầu tiên ở bậc Tiểu học. Từ việc nắm được mặt chữ, biết viết chữ, biết đọc trơn tiếng, từ, câu, toàn bài giúp các em có phương tiện để học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác ở các lớp trên. 2. Nhiệm vụ dạy học vần: - Giúp học sinh (HS) nắm được các chữ cái Tiếng Việt: con chữ đơn, kép thể hiện nguyên âm, phụ âm, nắm được các dạng chữ ghi âm a, b, c , các dấu thanh, thuộc bảng chữ cái tiếng Việt. - Giúp HS biết tổng hợp âm thành vần, nắm được vị trí các âm trong vần, biết ghép các phụ âm đầu với vần để tạo thành tiếng, đọc viết được tiếng đó. - Biết đọc đúng chính âm, viết đúng chính tả, các âm, vần, tiếng, từ, câu trong từng bài, biết nói hoặc kể theo chủ đề. - Chú ý rèn 4 kĩ năng (nghe, đọc, nói, viết). II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DẠY HỌC VẦN 1. Cơ sở tâm lý học 1.1.Sự hình thành hoạt động học tập ở trẻ lớp 1 Đi học lớp 1 là một giai đoạn mới trong cuộc đời của trẻ. Từ giai đoạn lấy hoạt động chơi làm chủ đạo, trẻ em em bước vào lớp 1 phải làm quen với hoạt động học tập, một hoạt động có ý thức, đòi hỏi HS phải làm việc có tổ chức, có mục đích. Các nhà tâm lý học cho rằng việc chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học đã có ở trẻ mẫu giáo. Song dù chuẩn bị thế nào, khi thực sự bước vào lớp 1, trẻ phải thực hiện một hoạt động có ý 50
  51. thức. Các em phải ngồi nghe bài, phải học bài, phải làm theo các yêu cầu của giáo viên Những thay đổi này làm cho một số em trong giờ học thường rụt rè, bỡ ngỡ, chưa thích nghi được , dẫn đến không tập trung nghe giáo viên giảng bài, còn ham chơi trong giờ học Những đặc điểm sinh lý trên đòi hỏi người giáo viên dạy lớp 1 (ở giai đoạn học âm, vần) cần chú ý tạo động cơ học tập cho HS một cách nhẹ nhàng, giúp HS hứng thú với việc học vần. Do vậy, trong dạy học, giáo viên cần phải có các phương pháp thích hợp trong đó chú trọng đến phương pháp trò chơi học tập (phương pháp học vui). 1.2.Đặc điểm nhận thức của trẻ lớp 1 Tri giác của HS lớp 1 đã phát triển hơn so với tuổi mẫu giáo, nhưng chủ yếu vẫn mang tính chất nhận biết tổng quát. Các em chưa nhận biết chính xác các chi tiết khi tri giác các đối tượng. Tri giác trong hoạt động học tập của HS chỉ mang tính chất nhận biết và gọi tên hình dáng, màu sắc của sự vật. Trẻ lớp 1 chưa có khả năng phân tích có hệ thống những thuộc tính và những phẩm chất của các đối tượng được tri giác. Khi học vần, hiện tượng phổ biến ở HS là đọc được cả tiếng nhưng không rõ các bộ phận của tiếng, không phân biệt được sự khác nhau của các vần, tiếng, giữa các con chữ ghi âm, vần, tiếng. Nguyên nhân chính là do khả năng phân tích của HS còn yếu. Vì vậy, GV cần coi trọng khâu hướng dẫn phân tích vần, tiếng, từ, sau đó cho HS tổng hợp (dùng con chữ ghi âm để ghép vần, tiếng, từ). Đây chính là cơ sở khoa học để giải thích phương pháp phân tích tổng hợp trong dạy học vần lớp 1. Mặt khác, sự phát triển tư duy của HS ở giai đoạn học vần gần giống với hoạt động tư duy của trẻ tuổi mẫu giáo. Do vậy, hoạt động nhận thức của lứa tuổi này chủ yếu diễn ra trong bình diện hành động trực quan. Trẻ sẽ dựa vào những đối tượng thực, vật thực, tranh ảnh để nhận thức Đây là cơ sở để nhấn mạnh phương pháp trực quan trong dạy học vần. Ngoài ra, trẻ lớp 1 còn thích tìm hiểu cái mới, thích hoạt động. Khả năng chú ý lâu của các em trong học tập còn yếu. Các em còn thích “học mà chơi, chơi mà học”. Đặc điểm tâm lý này giải thích lí do giáo viên cần chú ý vận dụng phương pháp đàm thoại, phương pháp trò chơi học tập trong dạy học vần. 2. Cơ sở ngôn ngữ học Những đặc điểm sau của Tiếng Việt có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn nội dung và hình thức dạy học vần lớp 1. 2.1. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập -Về mặt phát âm, mỗi âm tiết Tiếng Việt gắn với một thanh điệu. Trong chuỗi lời nói, ranh giới các âm tiết được thể hiện rõ ràng. Âm tiết Tiếng Việt không nối dính vào nhau như các ngôn ngữ khác. -Về mặt cấu tạo, âm tiết Tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ. Cách miêu tả âm tiết có cấu trúc hai bậc là cách miêu tả phù hợp với cảm thức tự nhiên của người bản ngữ. Vì vậy, người Việt dễ nhận ra âm đầu, vần, thanh, của các âm tiết tiếng Việt. 51