Sáng kiến kinh nghiệm Để dạy tốt bài thể dục phát triển chung lớp 8

doc 20 trang thienle22 3821
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Để dạy tốt bài thể dục phát triển chung lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_de_day_tot_bai_the_duc_phat_trien_chun.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Để dạy tốt bài thể dục phát triển chung lớp 8

  1. PHÒNG GD&ĐT HUYỆN ĐÔNG ANH TRƯỜNG THCS THỤY LÂM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỂ DẠY TỐT BÀI THỂ DỤC PHÁT TRIỂN CHUNG LỚP 8 Môn: Thể dục Cấp học: THCS Tên tác giả: Đặng Thị Thu Hà Đơn vị công tác: Trường THCS Thụy Lâm Chức vụ: Giáo viên Năm học : 2018 – 2019
  2. MỤC LỤC A/ ĐẶT VẤN ĐỀ 2 I. Lí do chọn đề tài 2 1. Cơ sở lí luận 2 2. Cơ sở thực tiễn 2 II. Mục đích nghiên cứu 2 III. Đối tượng nghiên cứu 2 IV. Phương pháp nghiên cứu 3 V. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu 3 VI. Những thuận lợi và khó khăn 3 B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 I. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu 4 II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 III. Các biện pháp thực hiện 4 1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 4 2. Các biện pháp tiến hành nghiên cứu 5 a) Chú ý công tác biên soạn động tác kĩ thuật 5 b) Bảo đảm và nâng cao khối lượng vận động 6 c) Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh 10 d) Hướng dẫn học sinh cách tự luyện tập ở nhà 16 3. Kết quả đạt được 16 C/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 17 I. Bài học kinh nghiệm 17 II. Đề xuất khuyến nghị 17 III. Lời kết 18 Tài liệu tham khảo 19 1/19
  3. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài 1. Cơ sở lí luận Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã tập trung toàn lực cho đổi mới giáo dục, coi đó là động lực để chuẩn bị một lực lượng mới có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với các môn học khác, chương trình học của môn Thể dục ở bậc THCS đã có sự đổi mới cơ bản về mục tiêu, nội dung và thời lượng đào tạo. Chương trình đổi mới vừa là tiền đề, vừa là yêu cầu đòi hỏi ứng dụng một cách linh hoạt phương pháp dạy học tích cực. Sự ra đời của phương pháp dạy học tích cực đã kéo theo sự đổi mới toàn diện của quá trình dạy và học, tạo ra một cuộc cách mạng về phươnga pháp, đem lại, một bộ mặt mới nhằm phù hợp với xu thế thời đại. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên THCS là phải đổi mới cách dạy: Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển học sinh đi tìm kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Học sinh phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi, phát hiện những kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự dẫn dắt, điều khiển của giáo viên trong tiết dạy. Do vậy, việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với kiểu bài và phù hợp với đối tượng học sinh là một vấn đề quan trọng, đó cũng chính là một thủ thuật sư phạm của người giáo viên. 2. Cơ sở thực tiễn Bài thể dục phát triển chung là một trong những nội dung của thể dục cơ bản. Động tác của nó đơn giản, khối lượng vận động nhỏ, dễ tập, nhưng nó có tác động đến toàn bộ cơ thể học sinh THCS. Kích thích sự phát triển bình thường và toàn diện của cơ thể, uốn nắn tư thế cơ bản chính xác cho học sinh. Luyện tập thường xuyên nó sẽ làm cho các em phát triển cân đối, hạn chế được những cố tật do thiếu ý thức gây lên như lệch vai, vẹo đầu, cong vẹo cột sống, . . . Bài thể dục phát triển chung được tiến hành luyện tập cho cả lớp, khi tập luyện yêu cầu học sinh phải phục tùng tổ chức, hành động thống nhất, động tác làm theo một nhịp, tiết tấu nhất định. Vì vậy bài thể dục phát triển chung giáo dục cho học sinh được nhiều phẩm chất đạo đức tốt như tinh thần tập thể, ý thức kỉ luật, Chính vì những cơ sở lí luận và thực tiễn trên mà bản thân tôi suy nghĩ giảng dạy làm sao để học sinh tiếp thu và thực hành kĩ năng các động tác trong bài thể dục phát triển chung một cách chính xác, có hiệu quả. Đó chính là đề tài tôi luôn trăn trở và muốn trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp. II. Mục đích nghiên cứu 1. Tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong môn học. 2. Giúp các em rèn luyện thân thể tốt, có sức khỏe đảm bảo trong việc học tập các môn văn hóa khác. 3. Sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với lứa tuổi, đảm bảo tính vừa sức. 4. Giúp cho giáo viên và học sinh có phương pháp dạy và học phù hợp với phương pháp đổi mới của Bộ giáo dục đã ban hành trên phạm vi toàn quốc. III. Đối tượng nghiên cứu 1. Là học sinh khối 8 trường THCS. 2. Rèn luyện thân thể trong nhà trường và luyện tập ở nhà. 2/19
  4. IV. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu Thời gian thực hiện từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019 môn Thể dục, cụ thể là các bài lên lớp thực hành thể dục. V. Phương pháp nghiên cứu 1. Tìm hiểu các tài liệu bồi dưỡng về chuyên môn. 2. Tọa đàm và trao đổi với các giáo viên trong tổ, nhóm. 3. Tích cực dự giờ đồng nghiệp, học tập và rút kinh nghiệm. 4. Viết đề cương. 5. Tổng hợp và lựa chọn viết. VI. Những thuận lợi và khó khăn 1. Thuận lợi - Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã cung cấp cho trường sách giáo khoa, tranh minh họa và đồ dùng giảng dạy. - Nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất về thời gian, cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học. - Tổ năng khiếu, nhóm thể dục đoàn kết, nhiệt tính giúp đỡ, đóng góp ý kiến. - Học sinh nhiệt tình, hứng thú với tiết dạy. 2. Khó khăn - Sân vận động, nhà giáo dục thể chất chưa có. - Tài liệu tham khảo còn nghèo nàn. - Khả năng sức khỏe, trình độ tiếp thu, năng lực luyện tập của học sinh không đồng đều trong một số lớp, giữa các lớp. Đặc biệt một số em còn rụt rè, thiếu tự tin trong tập luyện. Ngược lại có một số em lại quá hiếu động trong giờ học. 3/19
  5. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Những nội dung lí luận liên quan trực tiếp đến vấn đề cần nghiên cứu - Nước ta đang bước vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước với nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi con người thông minh, sáng tạo và năng động để làm chủ đất nước. Vì thế sự nghiệp giáo dục hiện nay được coi là “Quốc sách hàng đầu” đào tạo nhân tài cho đất nước. Điều này khẳng định rất rõ vai trò của người giáo viên đặc biệt là giáo viên THCS. - Luật giáo dục qui định mục tiêu “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa”. - Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển kết quả của Giáo dục tiểu học. - Học sinh THCS, các em đang ở độ tuổi 11 tới 15 tuổi. Có một số đặc điểm tâm sinh lí mà người giáo viên cần phải nắm bắt được. - Lứa tuổi học sinh THCS đã có những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành khả năng tự điều chỉnh trong hoạt động học tập, có tính tích cực, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động. Do yêu cầu của xã hội ngày nay: học sinh tốt nghiệp THCS ngoài các yêu cầu chung về phẩm chất đạo đức chính trị, trí dục còn phải được giáo dục để trở thành những người lao động năng động, sáng tạo thích ứng với sự phát triển với tốc độ nhanh của xã hội. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Qua nhiều năm thực tế giảng dạy, điều mà tôi luôn trăn trở là làm thế nào để học sinh yêu thích, say mê với môn học. Các em đang ở độ tuổi có một số đặc điểm thay đổi về tâm sinh lí nên biểu hiện động tác còn lóng ngóng, khó khăn, do vậy thực hiện động tác kĩ thuật chưa được đẹp, chính xác. Ngay từ những năm đầu tiên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy số học sinh yêu thích môn học tỉ lệ còn thấp, nhiều em còn sợ môn học. Chính vì lẽ đó làm ảnh hưởng đến kết quả học tập cuối năm của học sinh. III. Các biện pháp thực hiện vấn đề nghiên cứu 1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh a) Đối với giáo viên - Xây dựng kế hoạch giảng dạy từ đầu năm: Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch giảng dạy, kiểm tra, cách cho điểm cho nội dung môn học (từng tuần, tiết). - Nghiên cứu tổng hợp, phân tích các tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy. - Biên soạn giáo án phù hợp với đối tượng học sinh, trường, lớp. - Tự ôn các động tác, kĩ thuật cần truyền thụ. - Hướng dẫn và bồi dưỡng cán sự bộ môn, học sinh làm mẫu, thực hiện mô hình giảng dạy động tác kĩ thuật. - Chuẩn bị, kiểm tra cơ sơ vật chất, dụng cụ tập luyện trước khi lên lớp. Lựa chọn dụng cụ tập luyện nhất thiết phù hợp với trình độ thể lực, điều kiện phát triển của cơ thể và khả năng vận động cơ bản của học sinh. 4/19
  6. - Bồi dưỡng khả năng tổ chức, quán xuyến bao quát lớp. Lựa chọn dụng cụ tập luyện hợp lí, các phương pháp giảng dạy phù hợp nâng cao lượng vận động vừa sức cho học sinh. - Thực hiện đúng, có sáng tạo các bước, từng phần của giáo án lên lớp. Phân phối và điều chỉnh đúng mức các nội dung trong tập luyện để giờ học không đơn điệu do các bài tập lặp lại nhiều lần. - Bảo đảm các nguyên tắc trong giảng dạy, giáo viên sắp xếp nội dung bài lên lớp phù hợp với nguyên tắc vừa sức phát triển toàn diện, hệ thống, (Từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp lên cao). - Đảm bảo các quy trình giảng dạy, trên lớp, quá trình sư phạm và các phương pháp truyền thụ của giáo viên: + Giáo viên phải đảm bảo đúng tác phong sư phạm từ cử chỉ, lời nói, trang phục lên lớp, quan hệ giữa giáo viên, học sinh phải đúng mực, gần gũi, nhiệt tình, vui vẻ. Đặc biệt cần có thái độ dịu dàng thân mật, động viên, chỉ bảo, hướng dẫn tận tụy. + Trong quá trình truyền thụ kiến thức giảng giải, làm mẫu cần thực hiện đúng, chính xác, đẹp. + Sử dụng lời nói dễ hiểu, hấp dẫn với học sinh, khẩu lệnh rõ ràng, có sức truyền lệnh, truyền cảm. - Cập nhật thông tin về TDTT qua báo đài, mạng Internet về những thành tích của những vận động viên trong và ngoài nước. b) Đối với học sinh. - Chuẩn bị tinh thần tập luyện. - Trang phục gọn gàng, thể lực tốt. 2. Các biện pháp tiến hành Trong môn học thể dục, để có một tiết học đạt kết quả cao, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong tập luyện, nắm vững nội dung bài học, thực hiện các động tác kĩ thuật một cách chính xác, đẹp. Không có dấu hiện mệt mỏi, chán nản hay là mang tính chất có tập, tập cho xong. Cụ thể để dạy tốt bài thể dục phát triển chung thiết yếu cần phải có những phương pháp sau: a) Chú ý tới công tác biên soạn bài tập thể dục phát triển chung. Khi biên soạn bài thể dục phát triển chung cần chú ý những nguyên tắc sau: - Bài tập phải phù hợp với đối tượng, đặc điểm tâm sinh lí, trình độ tập luyện của học sinh, để đại đa số học sinh có thể tiếp thu, luyện tập được. - Bài tập phải có tác dụng phát triển toàn diện đến hệ thống cơ, dây chằng, hệ xương. Chọn các động tác phối hợp tay, chân, toàn thân nhịp nhàng. Các khớp, cơ làm việc và nghỉ ngơi hợp lí, được luân phiên nhau thay đổi làm việc. - Chú ý đến tiết tấu động tác và sự phối hợp với kĩ thuật nhịp thở. - Số lần lặp lại động tác trong mỗi nhịp tập không nên quá nhiều. Thời gian chuyển tiếp giữa các động tác cần dài hơn. - Chú ý đến biên độ và phương hướng động tác. Biên độ động tác rộng, thoáng, đẹp, phương hướng di chuyển chính xác, hợp lí. - Khối lượng vận động các động tác tăng dần từ thấp lên cao, từ nhỏ tới lớn, động tác làm từ chậm tới nhanh dần để cơ thể dần dần thích ứng với điều kiện 5/19
  7. hoạt động mới. Tránh hiện tượng cơ và dây chằng do luyện tập với cường độ lớn dẫn tới tổn thương. - Sau khi luyện tập với cường độ thích ứng, cần phải có động tác thả lỏng (điều hòa) để các nhóm cơ được nghỉ ngơi, hồi phục. - Thuật ngữ, tên gọi các động tác cần chính xác, dễ hiểu. b) Đảm bảo và nâng cao chất lượng giờ luyện tập b1. Để giờ luyện tập đạt chất lượng cao, người giáo viên cần xác định được nhiệm vụ, yêu cầu của giờ học, xác định được nội dung trọng tâm chủ yếu, từ đó phân chia thời gian hợp lí giữa các phần (Phần học động tác mới và phần ôn động tác cũ). Đặc biệt phải linh hoạt trong việc sử dụng đội hình tập luyện tránh di chuyển nhiều đội hình làm lãng phí thời gian tập luyện. Ví dụ: Ngay từ đội hình khởi động, tôi cho học sinh sắp xếp theo đội hình hàng ngang so le nhau (theo tổ, nhóm học tập) cự li một sải tay và từ đội hình này tôi có thể sử dụng luôn làm đội hình tập luyện bài thể dục phát triển chung. x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x V Đồng thời cũng từ đội hình trên tôi lại sử dụng làm đội hình cho trò chơi như: trò chơi “Tìm bạn mất tích”, b2. Vận dụng sáng tạo các nguyên tắc và phương pháp cơ bản trong tập luyện Căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của giờ học để xây dựng phương pháp phù hợp. Ví dụ: Giờ học động tác mới, nhiệm vụ chủ yếu là lấy việc truyền thụ kiến thức mới làm trọng tâm. Khi tiến hành cần lưu ý sử dụng có chọn lọc và sáng tạo tổ chức sư phạm, phương pháp giảng dạy để truyền thụ kĩ thuật động tác mới giúp học sinh hình thành kĩ năng một cách chính xác. Cụ thể:  Chú ý tới phương pháp giảng và làm mẫu - Giảng dạy một cách ngắn gọn, có trọng tâm, lời nói sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu có sức thu hút sự chú ý của học sinh. Khẩu lệnh rõ ràng, dứt khoát, có sức truyền lệnh, truyền cảm, khi giảng giải cần dùng đúng thuật ngữ chuyên môn. - Làm mẫu: Giáo viên hoặc học sinh được bồi dưỡng làm mẫu: Hoạt động giáo dục thể chất là hình thức và nội dung giáo dục chuyên biệt. Trong giảng dạy TDTT ngoài yêu cầu người giáo viên không chỉ có hệ thống tri thức liên quan để truyền thụ cho học sinh mà còn phải biết thực hành đúng, chính xác các động tác, kĩ thuật. Khi làm mẫu giáo viên cần chú ý: 6/19
  8. - Động tác mẫu phải chính xác hoàn chỉnh, giúp học sinh nắm được những yếu lĩnh cơ bản của kĩ thuật, động tác, biểu hiện được những điểm mấu chốt. Khi giảng dạy động tác mới, phức tạp giáo viên cần làm mẫu 2 – 3 lần : - Làm từng nhịp. - Làm hoàn chỉnh động tác. Lần 1: Thực hiện động tác hoàn chỉnh, với tốc độ chuyển động bình thường, đúng nhịp độ và yêu cầu (quay mặt lại với học sinh). Học sinh quan sát, hình thành trong trí nhớ hình ảnh sơ bộ của động tác, gây cảm giác hứng thú, thích bắt chước, làm theo. Lần 2: Giáo viên thực hiện động tác chậm ở những điểm mấu chốt, kĩ thuật. Giáo viên cần kết hợp với giảng giải và thực hiện động tác để các em nhớ lại những điểm chính. Lần 3: Vừa làm mẫu, vừa hướng dẫn học sinh tập, khi thấy có sai xót phải dừng lại sửa chữa và uốn nắn ngay. Khi hô theo nhịp đếm 1234 chú ý nhắc học sinh tư thế đúng của động tác và nhịp hít vào thở ra. Khi học sinh đã tập đúng động tác, giáo viên không cần làm mẫu nữa, mà khi hô nhịp để học sinh tự tập. Động tác mẫu còn áp dụng nhiều hình thức khác nhau, có thể làm mẫu theo kiểu “soi gương” hay thực hiện động tác nên bước đầu làm chậm để học sinh bắt chước thực hiện theo. Động tác mẫu tự nhiên và đảm bảo tính phối hợp nhịp nhàng. Giáo viên cần chọn vị trí đứng thích hợp để khi làm mẫu tất cả học sinh đều nhìn thấy các chi tiết chuyển động của động tác. Chú ý: Hướng gió, hướng có ánh nắng và hướng có những người đang hoạt động. Ví dụ: Tôi thường hay sử dụng một số đội hình để làm mẫu sau: x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x Làm mẫu kết hợp với giảng giải một cách chặt chẽ giúp học sinh hiểu và nắm được kĩ thuật động tác một cách chính xác. Đồng thời phải căn cứ vào trình độ tiếp thu, đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh, mức độ phức tạp của các động tác mà tăng hoặc giảm thời gian làm mẫu. Ví dụ: Trong bài thể dục phát triển chung (35 nhịp) có nhịp 10, 12, 19, mức độ phức tạp của động tác nhiều hơn so với các động tác khác nên thời gian làm mẫu nhiều hơn. Giả sử như nhịp 1, 2, 3 mức độ phức tạp của động tác ít hơn nhiều nên thời gian làm mẫu ít. Tóm lại: Để giảng giải và làm mẫu có hiệu quả giáo viên cần chú ý: - Làm mẫu động tác cần chính xác và hoàn chỉnh. 7/19
  9. - Cần chọn vị trí làm mẫu sao cho học sinh dễ quan sát. - Nên làm mẫu từ 2 lần trở lên và phải làm mẫu đúng thời điểm. - Giáo viên nên nói ngắn gọn, nhấn mạnh vào những nội dung mà học sinh cần phải thực hiện, việc giải thích càng ngắn gọn bao nhiêu thì học sinh càng dễ hiểu bấy nhiêu và tiết kiệm được thời gian cho học sinh tập luyện được nhiều hơn. - Đội hình làm mẫu và giảng giải nên sử dụng hàng ngang để học sinh dễ quan sát và nghe được rõ. Không nên làm mẫu sau đó giảng giải kĩ thuật động tác quá lâu, mà nên cho học sinh vừa tập, vừa kết hợp giải thích động tác bằng các thông tin ngắn gọn, chú ý vào những điểm khó, điểm trọng tâm, chủ yếu. - Dùng thuật ngữ thể thao đúng, nâng cao khả năng diễn đạt, phân tích và tổng hợp. - Phát huy vai trò nhiệt tình và gương mẫu của giáo viên.  Chú ý tới phương pháp sửa chữa động tác sai Trong quá trình tập luyện học sinh không tránh khỏi việc thực hiện động tác kĩ thuật có sai xót. Nên việc áp dụng phương pháp sủa chữa động tác là rất quan trọng và cần thiết, góp phần kịp thời hướng cho học sinh thực hiện động tác kĩ thuật đúng, chính xác. Để sửa sai có hiệu quả trước hết giáo viên cần: 1. Phát hiện ra cái sai (vị trí đứng của giáo viên phải thích hợp). 2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới cái sai. 3. Lựa chọn biện pháp sửa sai. Khi tiến hành sửa sai, giáo viên phải phát hiện cái sai chung và riêng, phải tiến hành sửa sai chung trước. Trong quá trình sửa phải sửa nguyên nhân chủ yếu trước, vì có thể sau khi sửa được nguyên nhân chủ yếu thì những cái sai khác sẽ được sửa theo. Phương pháp sửa sai rất phức tạp, muôn hình, muôn vẻ. Nếu là sai chung cho dừng lại (giáo viên phân tích, ) nếu là sai riêng thì sửa chữa riêng cho từng em mà không được dừng lại cả lớp. Ví dụ 1: Nếu học sinh chưa nắm được yêu cầu kĩ thuật động tác (không chịu nghe hoặc không quan sát) giáo viên giảng giải và làm mẫu lại. Ví dụ 2: Nếu học sinh trí thông kém, trình độ tập luyện thấp, giáo viên làm lại động tác sai của học sinh để chỉ dẫn cho các em biết thế nào là sai, sau đó làm mẫu đúng cho các em tập nhiều lần ở những nhịp học sinh tập luyện sai, cho đến khi các em thực hiện đúng mới chuyển sang các nhịp tiếp theo. Ví dụ 3: Nếu gặp học sinh quá hiếu động thì cần có biên pháp kỉ luật để học sinh tập trung và làm tốt kĩ thuật động tác. Giáo viên có thể kiểm điểm xem phương pháp giảng dạy của mình có tốt không, có phù hợp với đối tượng học sinh không, nếu không thì thay đổi phương pháp giảng dạy. Tóm lại: Để sửa chữa sai lầm trước tiên cần quan sát, nghiên cứu để sớm phát hiện những nguyên nhân đưa tới những thiếu sót (chung hoặc từng học sinh) cần điều chỉnh lại nội dung bài học, vận dụng các phương pháp sửa chữa sai lầm cho kịp thời và phù hợp. Phương pháp sửa chữa sai lầm trong tập luyện TDTT cho học sinh THCS cần áp dụng các hình thức phong phú. Những thiếu sót về tư thế, kĩ 8/19
  10. thuật, ý thức, cần nhắc nhở nhẹ nhàng bằng lời nói. Trong quá trình cho học sinh tập, nếu có sai sót đồng loạt nên ngùng tập luyện để học sinh xem lại động tác mẫu của giáo viên hoặc 1 – 2 học sinh có kĩ thuật động tác tốt (làm mẫu kết hợp giảng giải chậm) có thể thực hiện lại động tác của học sinh, sau đó cùng cả lớp phân tích sai ở điểm nào? Để các em thấy được những thiếu sót của mình, rồi giáo viên làm mẫu đúng, học sinh thực hiện theo. Giáo viên có thể sử dụng tiếng hô, vỗ tay để nhắc nhở các em thời điểm chủ yếu cần thay đổi kĩ thuật động tác, giúp các em nhớ và nắm vững thời điểm dùng sức, xây dựng cảm giác chính xác, sử dụng sức mạnh cơ bắp trong quá trình thực hiện hoàn thành bài tập.  Phương pháp trực quan Để tác động trực tiếp vào học sinh trong quá trình tiếp thu động tác, việc trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. Nó tận dụng được mọi giác quan, giúp học sinh nắm bài một cách chắc chắn. Có 2 phương pháp trực quan: - Trực tiếp: giáo viên hoặc học sinh làm mẫu. - Gián tiếp: dùng hình ảnh, quay phim, mô hình tranh ảnh. Phương pháp của tôi là: - Nếu động tác đơn giản, quĩ thời gian ít thì dùng trực quan trực tiếp: giáo viên hoặc học sinh làm mẫu. Ví dụ 1: Tiết học từ nhịp 1- 8 Căn cứ vào mức độ kĩ thuật của động tác, tôi thấy đây là các động tác có kĩ thuật tương đối đơn giản. Vì vậy đối với nội dung học các nhịp này, tôi sử dụng phương pháp trực quan trực tiếp mà không cần đến trực quan gián tiếp. - Nếu động tác phức tạp, quĩ thời gian nhiều thì dùng phương pháp trực quan gián tiếp (mô hình, tranh ảnh bài thể dục phát triển chung). Ví dụ 2: Tiết học từ nhịp 9 - 17 Căn cứ vào mức độ kĩ thuật của động tác, trong các động tác trên có một số nhịp động tác kĩ thuật phức tạp hơn các động tác khác. Đối với nội dung này, tôi lại sử dụng cả 2 phương pháp trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp (tranh minh họa các động tác) và được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Xác định đối tượng làm mẫu: Giáo viên hoặc một nhóm học sinh. Xác định đối tượng quan sát: 1 nhóm học sinh hay toàn lớp. Bước 2: Nêu tên động tác Bước 3: Chọn vị trí thích hợp sao cho đảm bảo an toàn và dễ quan sát Bước 4: Thực hiện toàn bộ động tác với tốc độ trung bình Bước 5: Vừa thực hiện chậm từng chi tiết kĩ thuật động tác vừa giải thích và nhắc nhở học sinh quan sát điểm mấu chốt của kĩ thuật Bước 6: Thực hiện hoàn chỉnh toàn bộ động tác  Trực quan gián tiếp Bước 1: Xác định vị trí để giáo cụ trực quan cho hợp lí và dễ quan sát Bước 2: Nêu nội dung và nhiệm vụ khi quan sát Bước 3: Giới thiệu chậm từng chi tiết của động tác Bước 4: Giải đáp thắc mắc hoặc nhấn mạnh cụ thể tùng chi tiết cần lưu ý của động tác Sử dụng các phương pháp trên có ưu điểm và hạn chế: 9/19
  11. Ưu điểm - Bước đầu làm quen và xây dựng cảm giác động tác và cách thực hiện động tác. - Nắm được những yêu cầu cơ bản của kĩ thuật. - Tác động đến quá trình giáo dục, đạo đức, thẩm mĩ, cho người học. Hạn chế - Khi sử dụng phương pháp này giáo viên thường hay tham giảng giải nhiều. - Nếu sử dụng tranh ảnh không hợp lí sẽ dẫn đến mất thời gian mà hiệu quả học không cao. Do vậy áp dụng phương pháp này giáo viên cần chú ý: + Lựa chọn tranh ảnh tốt, trình bày đúng lúc. + Tạo vị trí quan sát tốt (Dùng đội hình để tạo khả năng quan sát). + Trực quan phải kết hợp giảng giải và đàm thoại, vừa cho học sinh quan sát, vừa giải thích thêm giúp học sinh tìm hiểu nhanh chóng, hình thành khái niệm chính xác. + Trong quá trình giảng dạy thể dục tránh bệnh hình thức, cố ý bày vẽ làm mất thời gian. Biện pháp chủ yếu là lựa chọn cách nào mất ít thời gian mà học sinh vẫn tiếp thu được tốt, có tính hấp dẫn. c. Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh c1. Việc nêu yêu cầu, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể làm cho học sinh hiểu được mục đích, yêu cầu, tác dụng của bài tập, động viên sự chú ý để học sinh tích cực, tự giác, phấn khởi tập luyện. Ví dụ: Tiết ôn hoàn thiện bài thể dục phát triển chung (chuẩn bị giờ sau kiểm tra). Sau khi giáo viên nêu nhiệm vụ, yêu cầu của bài xong, nêu luôn nội dung, phương pháp, biểu điểm cụ thể cho giờ sau kiểm tra. Giúp học sinh phấn đấu trong tập luyện. Cụ thể: - Mục tiêu: Ôn và hoàn thiện bài thể dục . - Yêu cầu: Học sinh thực hiện thành thạo các động tác, tư thế chính xác, đẹp, động tác nhịp nhàng và liên tục. - Nội dung giờ sau kiểm tra: Mỗi học sinh phải thực hiện từ nhịp 1 đến nhịp 35 của bài thể dục phát triển chung. Tổ chức và phương pháp kiểm tra: Kiểm tra làm nhiều đợt, mỗi đợt 2 đến 3 học sinh. Mỗi học sinh tham gia kiểm tra 1 lần. - Cách cho điểm: Điểm kiểm tra cho theo mức độ thực hiện động tác của từng học sinh . Điểm 9 – 10: Thuộc toàn bài, động tác chính xác, nhịp nhàng, đẹp. Điểm 7 – 8: Thuộc toàn bài, nhưng còn 2 - 3 nhịp bị sai sót nhỏ. Điểm 5 – 6: Có 2 – 3 nhịp thực hiện sai. Điểm 3 – 4: Có 4 – 6 nhịp sai trở lên. Tóm lại : Việc nêu nhiệm vụ, yêu cầu của bài tập luyện một cách rõ ràng, cụ thể ngay từ đầu giờ học nhằm giúp học sinh hưng phấn trong tập luyện . 10/19
  12. c2. Tăng cường sử dụng các phương pháp thi đua tập luyện giữa các tổ nhóm tạo tình huống cho học sinh tự quản, năng lực chỉ huy và cơ hội tham gia đánh giá, cho điểm để học sinh chú ý tập luyện . Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu của bài: như bài ôn tập hoặc bài dạy động tác mới. Ví dụ : Tiết 2 (Theo phân phối chương trình) Học từ nhịp 1 – 8 trong bài thể dục phát triển chung. Tiết 3: Ôn từ nhịp 1- 8 bài thể dục phát triển chung. Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu của nội dung bài học trên, bài dạy động tác mới như tiết 2 và bài ôn tập tiết 3. Nếu bài dạy động tác mới, sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh nắm cơ bản được kĩ thuật động tác. Còn bài ôn tập thì khi giáo viên đã củng cố lại kiến thức động tác bằng phương pháp phân tích, giảng giải kết hợp thị phạm lại động tác, sửa chữa động tác sai cho học sinh thì tiến hành cho học sinh tập theo tổ (nhóm) và để học sinh tự ôn tập, sửa động tác sai cho nhau và đề ra yêu cầu các thành viên trong tổ (nhóm) phải thay nhau lên chỉ huy. Giáo viên giúp đỡ các tổ ổn định tổ chức, sửa động tác sai. Sau khoảng thời gan nhất định, tập hợp lớp lại, cho từng tổ (nhóm) lên trình diễn, báo cáo kết quả. Kết thúc, cả lớp cùng giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả (biểu dương tổ tập tốt, động viên tổ tập chưa tốt). Cụ thể: Trong giảng dạy bài thể dục phát triển chung tôi đi theo các bước sau Bước 1: Nêu nhiêm vụ, nội dung tâp luyện, yêu cầu thực hiện cho các nhóm. Bước 2: Chia nhóm. Bước 3: Đặt tên nhóm, cử nhóm trưởng, phân công việc cho các thành viên, vị trí tập luyện của nhóm. Bước 4: Triển khai các nhóm về vị trí đã phân công. Bước 5: Tập trung toàn lớp, từng nhóm lên trình diễn kết quả tập luyện của nhóm mình, học sinh nhận xét, giáo viên nhận xét bổ xung và tổng kết đối với từng nội dung hoặc toàn bài. Biểu dương nhóm tập luyện tốt Ví dụ: Tiết ôn các nhịp đã học và học nhịp mới Để học sinh có điều kiện tập luyện được nhiều, bộc lộ ý kiến, tăng khả năng hợp tác và năng lực làm việc cá nhân. Tôi thường cho học sinh tập luyện 1 trong 2 hình thức (tập luyện theo nhóm có quay vòng và tập luyện theo nhóm không quay vòng). - Tập luyện theo nhóm có quay vòng thứ tự các bước như sau: Bước 1: Giới thiệu mục tiêu bài học (ôn tập các nhịp đã học và học nhịp mới). Bước 2: Chia lớp thành 2 nhóm. Bước 3: Giáo viên phân công: nhóm 1 do giáo viên điều khiển học các nhịp mới, nhóm 2 cán sự điều khiển ôn các nhịp đã học, sau đó đổi ngược lại . Bước 4: Giáo viên triển khai 2 nhóm về vị trí tập luyện trong 5-7 phút: nhóm 1 do giáo viên điều khiển học nhịp mới, nhóm 2 do cán sự điều khiển ôn các nhịp đã học. Sau một khoảng thời gian nhất định đổi nhóm 2 giáo viên điều khiển học nhịp mới, nhóm 1 cán sự điều khiển ôn các nhịp đã học. 11/19
  13. Đội hình tập: x x x x x x x x o o o o o o o o x x x x x x x x o o o o o o o o O Nhóm 2: Cán Nhóm 1 : Giáo sự điều khiển viên điều khiển Bước 5: Tập trung lớp, từng nhóm lên tập toàn bài. Học sinh nhận xét, giáo viên nhận xét bổ xung và tổng kết đối với từng nội dung hoặc toàn bài. Biểu dương nhóm hoặc cá nhân thật tốt. - Tập luyện theo nhóm không quay vòng. Bước 1: Giới thiệu mục tiêu bài học (ôn các nhịp đã học, học nhịp mới) Bước 2: Học nhịp mới, giáo viên phân tích, thị phạm mẫu và hướng dẫn lớp tập luyện, khi học sinh nắm được cơ bản động tác kĩ thuật thì kết hợp luyện tập với các nhịp đã học. Trước khi tập luyện giáo viên nêu động tác sai thường mắc và cách sửa. Đồng thời ôn khoảng 2 lần thì chia lớp thành 4 nhóm tập luyện. Bước 3: Cử các tổ trưởng là các nhóm trưởng trực tiếp điều hành nhóm mình tập luyện (trong quá trình tập, nhóm trưởng, cử các thành viên trong nhóm thay nhau lên chỉ huy cho nhóm mình tập luyện). Bước 4: Cho các nhóm tập luyện theo vị trí phân công. Giáo viên theo dõi chung, quan sát các nhóm, sửa cách chỉ huy cho học sinh và sửa cho những học sinh tập chưa đúng động tác. Đội hình tập: x x x x x x x x x x x x x x x x Nhóm 1 Nhóm 2 x x x x x x x x x x x x x x x x Nhóm 3 Nhóm 4 Bước 5: Tập trung lớp, từng nhóm lên tập toàn bài. Học sinh nhận xét, giáo viên nhận xét bổ xung và tổng kết đối với từng nội dung hoặc toàn bài. Biểu dương nhóm hoặc cá nhân tập luyện tốt. Tóm lại: Việc phân chia theo tổ (nhóm) có nhiều ưu điểm: - Tăng khả năng tự quản, thi đua giữa các tổ. - Các em có điều kiện giúp đỡ nhau, sửa chữa động tác sai. - Nâng cao và đảm bảo mức độ bài tập. - Khắc phục được tình trạng thiếu sân bãi. - Nâng cao tổ chức, lãnh đạo của giáo viên. - Phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh. - Giúp học sinh tăng khả năng biểu đạt trước đám đông. - Xây dựng cơ sở cho việc tiến hành tập ngoài giờ. 12/19
  14. - Giáo viên nhiều thời gian quan sát, sửa sai và nắm được khả năng tập luyện của từng học sinh. Bên cạnh những ưu điểm, việc chia nhóm cũng có những hạn chế nhất định như: - Những học sinh chưa tự giác học tập có cơ hội trốn tránh nhiệm vụ tập luyện, ỷ lại vào các bạn. - Có thể dẫn đến tranh luận, mất trật tự. - Mục tiêu của bài học có thể trở nên không rõ ràng. Qua quá trình trải nghiệm thực tế giảng dạy, tôi đã nhận thấy được những mặt hạn chế trên. Do vậy, khi phân chia nhóm tập luyện, giáo viên cần có một số chú ý sau: + Đề ra mục tiêu thật rõ ràng và giao nhiệm vụ cụ thể đến từng nhóm. + Khuyến khích học sinh tham gia với thái độ đúng đắn. + Động viên, khích lệ các học sinh cùng tham gia. + Giáo viên cần có kinh nghiệm, kĩ năng điều hành dạy học theo nhóm. + Tóm tắt các kết quả làm việc của nhóm, nhận xét xác đáng không chung chung, trên tinh thần động viên khích lệ học sinh là chính. + Nhận xét một học sinh hoặc một tổ nhóm hoc sinh nào đó giáo viên cần đánh giá sự tiến bộ của học sinh hoặc một tổ (nhóm) đó. Chỉ rõ điểm tiến bộ điểm yếu để em đó hoặc tổ (nhóm) đó có hướng phấn đấu và sửa chữa. Tránh nhận xét 1 chiều. c3. Sử dụng một số câu hỏi để trao đổi với học sinh. Đối với phương pháp này, tôi sử dụng vào thời gian chuyển giao giữa hình thức tập luyện này với hình thức tập luyện kia như là: Từ hình thức tập luyện đồng loạt sang hình thức tập luyện theo tổ, nhóm. Trước khi phân chia theo tổ (nhóm) tập luyện, giáo viên có thể cho học sinh vừa nghỉ ngơi (một ít thời gian) vừa trả lời một số câu hỏi, nhằm mục đích thư giãn cơ thể và tự kiển tra việc nắm vững kiến thức kĩ năng động tác đến đâu. Ví dụ 1: Thực hiện từ nhịp 8 – 13 và cho biết nhịp 10 nghiêng lườn về bên nào? Trọng tâm dồn vào chân trái hay chân phải? Ví dụ 2: Thực hiên từ nhịp 13 – 17 và cho biết tư thế của chân ở các nhịp 14,15, 16? Ví dụ 3: Thực hiện từ nhịp 17 – 24 và cho biết từ nhịp 17 sang nhịp 18 thân người quay bao nhiêu độ và về bên nào? Với những câu hỏi trên, giáo viên gọi 1 – 2 học sinh lên trả lời và thực hiện, lớp quan sát, sau đó học sinh cùng giáo viên nhận xét, đánh giá. c4. Sử dụng trò chơi và thi đấu tạo hứng thú cho học sinh, đồng thời có tác dụng đến bài tập. Các hình thức giáo dục thể chất đều có sự quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy trong việc giáo dục thể chất, trò chơi cũng là một phương pháp tập luyện, hoạt động phối hợp một cách hữu cơ với việc rèn luyện thân thể. Sử dụng các hình thức tập luyện bằng hình thức trò chơi và thi đấu có tác dụng làm cho học sinh phấn khởi, hăng say, tích cực trong tập luyện. Trò chơi có nhiều loại, mỗi trò chơi có mục đích, ý nghĩa khác nhau. Trong quá trình giảng dạy, tôi phải căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu bài bài tập, đối tượng học sinh, thời gian, địa điểm, dụng cụ, để lựa chọn trò chơi vừa có tác dụng giáo dục tính tổ chức kỉ luật, tinh thần tập thể, tinh thần đoàn kết, vừa có tác dụng đến nội dung bài tập. Trò chơi 13/19
  15. nên tổ chức các hình thức đa dạng, phong phú, tránh phức tạp, bảo đảm an toàn, không để mất nhiều thời gian vào việc điều hành đội ngũ. Yêu cầu lượng vận động vừa sức, học sinh cần có sự cố gắng tham gia, song tránh lặp lại quá nhiều gây mệt mỏi, quá sức, phòng tránh chấn thương. Khi tiến hành chơi giáo viên cần căn cứ vào cấu trúc của từng loại trò chơi mà sắp xếp đội hình, đội ngũ sao cho phù hợp. Khi chia đội cần phân chia số người hợp lí đồng đều về số lượng, tình trạng sức khỏe, giới tính. Trước khi thực hiện trò chơi giáo viên cần phải: - Nêu tên trò chơi để giúp học sinh có khái niệm chung về trò chơi. Đối với các trò chơi mới tên trò chơi làm cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi, muốn hiểu biết, từ đó tập trung sự chú ý của học sinh. - Phổ biến nội dung và cách thức tiến hành phải rõ ràng, mạch lạc để học sinh không nhầm lẫn, hiểu rõ nội dung, yêu cầu, hình thức chơi. - Cán sự bộ môn là người điều hành trò chơi, giáo viên theo dõi chung, chấn chỉnh kỉ luật khi cần thiết. - Một số trò chơi cần có trọng tài thì cán sự bộ môn hoặc học sinh có uy tín. Kết thúc trò chơi phải đúng lúc (căn cứ vào thời gian qui định và mức độ của trò chơi mà kết thúc một cách hợp lí). Nếu đang chơi mà kết thúc thì không thực hiện được yêu cầu, nhưng cũng không vì thấy các em đang chơi quá hăng say mà kéo dài thời gian chơi làm ảnh hưởng đến sức khỏe của học sinh. - Tránh lặp đi, lặp lại một trò chơi trong các tiết học liền nhau. Giáo viên cần nhận xét tinh thần thái độ tham gia (có biểu dương, phê bình). Nếu có hiện tượng xấu cần nêu lên để các em rút kinh nghiệm hoặc đấu tranh phê bình và tự phê bình. Nhận xét về cách thức tiến hành và việc thực hiện quy tắc luật chơi. Đánh giá kết quả các mặt: đạo đức, ki luật và phát triển thể lực, biểu dương đội thắng. Nhận xét và tổng kết thi đua phải chính xác. - Các trò chơi vui thường đưa vào đầu giờ tập, giữa giờ và kết thúc giờ tập. Nhưng điểm quan trọng là phải biết lựa chọn trò chơi phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giờ học, đối tượng học sinh, thời gian, địa điểm, dụng cụ, - Cụ thể: Đối với nội dung tập luyện bài thể dục phát triển chung, tôi lựa chọn trò chơi: Tìm bạn mất tích, làm theo hiệu lệnh, đứng chân không trên đất, kéo co, Đây là những trò chơi đơn giản, không mất nhiều thời gian vào sắp xếp đội hình. Ví dụ 1: Trò chơi “Làm theo hiệu lệnh” - Mục đích: Rèn luyện phản xạ nhanh, một số động tác thể dục đã học. - Chuẩn bị: Cho học sinh xếp thành 1 hoặc 2 vòng tròn, cho các em tự nhắm mắt lại, rồi thực hiện động tác theo lời hô của cán sự bộ môn. - Cách chơi: Cán sự hô quay các hướng như sang phải, sang trái, ra sau hoặc giơ hai tay ra trước, ra sau, lên cao, Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm bạn mất tích” - Mục đích: Rèn luyện trí nhớ cho học sinh. - Chuẩn bị: Cho học sinh xếp thành 4 hàng ngang, cự li hẹp. Chọn một học sinh hàng thứ nhất và hàng thứ hai. Hai em đó ra khỏi hàng, tiến lên, đứng cạnh giáo viên. 14/19
  16. - Nội dung trò chơi: Bây giờ, mỗi em phải nhớ thật kĩ những bạn thuộc hàng của mình. Hỏi tiếp các em được chọn ra khỏi hàng nhớ rõ chưa? Khi hai em trả lời: “Rõ rồi !” thì cho hai em đó quay mặt đi, không được nhìn vào hàng nữa. - Cách chơi: Cho cự li của các em trong hàng sát nhau và bí mật chọn ở mỗi hàng một em ra nấp sau hàng. Sau đó cho hai em đi tìm quay mặt vào hàng và tìm cho ra tên bạn mất tích. Sau 30 giây mà không nói được tên người mất tích thì thua cuộc coi như trí nhớ chưa tốt. Khi người đi tìm đi về phía nào thì trong hàng đó có thể vỗ tay và nghiêng người về phía đó, vừa để tạo không khí vui nhộn, vừa để che cho người ở phía sau. Tóm lại: Phương pháp trò chơi được sử dụng như một phương tiện làm nóng cơ thể (khời động), hồi tĩnh, thư giãn (sau phần cơ bản), phát triển các tố chất chung của người học. Có thể thực hiện phương pháp trò chơi theo các bước sau: Bước 1: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu để lựa chọn trò chơi. Bước 2: Nêu tên, mục đích trò chơi, phổ biến cách chơi và luật chơi. Bước 3: Cho học sinh chơi thử. Bước 4: phân chia thành các nhóm chơi, các nhóm tự cử nhóm trưởng. Bước 5: Cho học sinh tiến hành chơi. Tuyên bố kết quả sau mỗi lần chơi. Bước 6: Nhận xét học sinh chơi, kết luận đội thắng cuộc. Ưu điểm: + Gây hứng thú cho người học, tạo điều kiện cho việc học tập được tốt hơn. + Thông qua trò chơi giáo dục hành vi, đạo đức của các em. + Lôi cuốn học sinh vào quá trình tập luyện. + Xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. + Thể hiện được những cá tính của người chơi. Hạn chế: + Nếu không tổ chức tốt sẽ chiếm nhiều thời gian, ảnh hưởng tới sức khỏe và nội dung bài học khác. + Gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến lớp bên cạnh. + Nếu chọn trò chơi hoặc cách chơi không đúng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến việc tiếp thu kĩ thuật động tác. Một số điểm cần chú ý: - Giáo viên cần yêu cầu học sinh tích cực tham gia trò chơi và có biện pháp điều chỉnh lượng vận động hợp lí. - Tổ chức trò chơi trên cơ sở là những quy định nhất định để đạt mục đích nào đó. - Xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. - Cần lưu ý lựa chọn địa điểm tổ chức sao cho không ảnh hưởng đến lớp học khác. Ví dụ: Trò chơi “Người thừa thứ 3” Bước 1: Sau khi học xong bài thể dục phát triển chung giáo viên có thể tổ chức cho học sinh cả lớp chơi: “Người thừa thứ 3” để thông qua đó rèn luyện thể lực và phát triển sức nhanh cho các em. 15/19
  17. Bước 2: Nêu tên, mục đích trò chơi, phổ biến cách chơi và luật chơi. Bước 3: Hướng dẫn cán sự điều khiển và tổ chức cho học sinh chơi thử một lần. Bước 4: Cán sự điều khiển cho học sinh chạy thành đội hình vòng tròn ( hướng chạy do giáo viên quy định). Điểm số theo chu kì 1 – 2 – 3 . Bước 5: Cán sự điều khiển cho học sinh tiến hành chơi. Tuyên bố kết quả và phạt những học sinh thua cuộc sau mỗi lần chơi. Bước 6: Nhận xét và rút kinh nghiệm cuộc chơi. d. Hướng dẫn học sinh cách tự luyện tập ở nhà Để học sinh tự luyện tập ở nhà một cách tốt nhất giáo viên cần: - Giao khối lượng động tác, bài tập một cách rõ ràng, cụ thể. - Photocopy hình bài thể dục phát triển chung (Sách giáo khoa thể dục 8) phân theo nhóm những học sinh gần nhà với nhau. - Nêu mục đích, tác dụng của việc luyện tập thường xuyên bài thể dục phát triển chung vào các buổi sáng, tối hàng ngày và việc sử dụng làm bài tập thư giãn cơ thể khi các em học bài căng thẳng, để các em thấy được tầm quan trọng của nó. Giúp học sinh chú ý luyện tập thường xuyên và có hiệu quả tốt. 3. Kết quả đạt được Do không ngừng cải tiến đổi mới phương pháp dạy học ở các giờ tập luyện bài thể dục phát triển chung lớp 8, nên các giờ học đã diễn ra sôi nổi, hào hứng. Giờ tập không gây tâm trạng “mệt mỏi” mà ngược lại, học sinh hứng thú với bài tập, khả năng thực hiện động tác chính xác, tư thế đúng, đẹp. Kết quả kiểm tra trong năm học: tỉ lệ điểm Khá - Giỏi cao hơn so với năm học trước. Cụ thể: Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu 5% Năm học 2017-2018 11% 48% 36% 15% 52% 2% Năm học 2018-2019 31% Nhìn vào số liệu trên ta thấy: So với thực trạng kết quả của năm học trước, kết quả học sinh đạt loại Khá - Giỏi tăng lên, loại yếu giảm xuống rõ rệt. 16/19
  18. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Bài học kinh nghiệm 1. Đối với giáo viên: Các giờ luyện tập bài thể dục phát triển chung có một vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục thể chất trong nhà trường THCS. Đối với học sinh, đây là giờ tập luyện, các em được truyền thụ kĩ năng tực hành động tác và được phát huy vai trò chủ động tích cực của mình trong tập luyện. Sau khi áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy nội dung bài thể dục phát triển chung, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau: - Để đạt được một tiết dạy tốt trên lớp thì người giáo viên phải nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy, kiến thức trọng tâm. - Phải có kiến thức chuyên môn vững chắc và nghệ thuật sư phạm (tổ chức lớp, tâm lí với học sinh, quan tâm tới mọi đối tượng học sinh). - Sử dụng linh hoạt đội hình tập luyện và đồ dùng giảng dạy. - Phối hợp chặt chẽ với cán sự bộ môn để nắm bắt thông tin kịp thời. - Đổi mới phương pháp giảng dạy: sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý, hiệu quả, linh hoạt phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học, nội dung , tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ của học sinh; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường. - Thường xuyên động viên khích lệ, khen thưởng học sinh học tập tốt, có tiến bộ. - Tạo cơ hội cho học sinh được tham gia một cách tính cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình tập luyện, bồi dưỡng hứng thú cho hoc sinh khi tham gia môn học này giúp các em phát huy tối đa tiềm năng của bản thân. - Dự kiến những sai sót về kĩ thuật của học sinh trong quá trình tập luyện và cách sửa chữa. - Dự kiến các tình huống sư phạm nảy sinh trong quá trình lên lớp. - Đổi mối phương pháp kiểm tra đánh giá năng lực học sinh thông qua giờ kiểm tra, hoạt động trong giờ học. 2. Đối với học sinh - Cần tích cực, chủ động trong tập luyện, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo động tác để phát triển thể chất toàn diện. - Có thái độ hành vi đúng đắn với môn học, ham mê, yêu thích tập luyện thể dục thể thao, có tinh thần phấn đấu vươn lên. - Chuẩn bị trang phục tập luyện gọn gàng, đúng quy định. II/ Đề xuất khuyến nghị - Phòng GD – ĐT nên thường xuyên tổ chức các tiết chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy, các lớp bồi dưỡng về chuyên môn. - Cung cấp tài liệu bồi dưỡng về các trường. - Cung cấp cho các nhà trường băng, đĩa sử dụng bài dạy mẫu và các động tác kĩ thuật cho các môn học. - Cung cấp tranh bài Thể dục của các khối lớp. - Trang bị đồ dùng dạy học hiện đại hơn và có chất lượng hơn. 17/19
  19. III/ Lời kết Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong những năm học qua, tôi đã vận dụng và áp dụng vào thực tế giảng dạy bộ môn Thể dục ở nhà trường phổ thông. Tôi thấy kết quả học tập của các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Rất mong các bạn đồng nghiệp áp dụng vào thực tế giảng dạy và tham gia góp ý kiến thêm cho đề tài. Trong quá trình đúc rút kinh nghiệm hay trình bày có điều gì chưa hợp lí, mong các bạn đồng nghiệp đóng góp chân thành để đề tài ngày một hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn ! Thụy Lâm, ngày 05 tháng 04 năm 2019 Người viết Đặng Thị Thu Hà 18/19
  20. NHỮNG TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo viên TD 6 . NXB Giáo dục. 2. Sách giáo viên TD 7 . NXB Giáo dục 3. Sách giáo viên TD 8. NXB Giáo dục 4. Sách giáo viên TD 9. NXB Giáo dục 5. Tài liệu BDTX Giáo viên dạy Thể dục trường THCS. NXB Giáo dục 6. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Thể dục – THCS . NXB Giáo dục. 7. Những vấn đề chung về đổi mới giang dạy – THCS môn thể dục _ NXB giáo duc. 8. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên chu kì 3 (2004-2007) môn thể dục . NXB giáo dục . 19/19