Sáng kiến kinh nghiệm Dạy-Học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp

doc 33 trang thienle22 3270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy-Học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_truyen_cuoi_trong_chuong_trinh.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy-Học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp

  1. 1 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Phần 1 Đặt vấn đề I. Lý do chọn đề tài 1.Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay là ngày càng khẳng định vai trò tích cực của con người trong việc chiếm lĩnh các tri thức khoa học. Việc đào tạo những con người có đủ Nhân-Trí-Dũng là thật sự cần thiết. Để con người có thể phát triển, một cách toàn diện được, cần rất nhiều yếu tố, trong đó văn học cũng góp phần không nhỏ vào quá trình rèn luyện nhân cách con người mới. Do khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm có hạn cho nên người viết chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ là: Dạy học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6. Truyện cười, nằm trong hệ thống dân gian, là thể loại văn học thể hiện rõ cái nét tinh thần lạc quan, trí thông minh sắc sảo và tinh thần đấu tranh chống cái xấu của nhân dân lao động. Vì thế nó có sức mạnh, tác dụng riêng trong việc bồi dưỡng vẻ đẹp nhân cách, bồi đắp tâm hồn dân tộc, rèn luyện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra là phải dạy và học truyện cười như thế nào để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. 2.Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn việc học và truyện cười từ trước tới nay chưa thật được chú trọng. Trong nhiều giờ dạy một số giáo viên chỉ đi khai thác nội Người viết: Lê Hòa Bình
  2. 2 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 dung truyện cười một cách sơ giản, đơn điệu. Do vậy chưa gây được sự hứng thú của học sinh hoặc đã chỉ được ra yếu tố gây cười nhưng chưa nêu bật được ý nghĩa của cái cười. Từ thực tế đó tôi thấy mình cần phải có một phương pháp dạy truyện cười thích hợp để học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức của bài học mà còn say mê học một cách sáng tạo. Hơn nữa để đáp ứng với phương pháp dạy học theo yêu cầu của chương trình SGK mới, người giáo viên không chỉ dựa vào những giáo trình thiết kế bài giảng một cách đơn thuần mà phải có một kiến thức, một phương pháp sáng tạo để hướng học sinh tự học tập, tự tìm tòi, và nắm bắt kiến thức một cách có chiều rộng, chiều sâu. Chính vì vậy mà với bài viết nhỏ này người viết xin được đề cập đến vấn đề: Dạy-Học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp. II. Lịch sử vấn đề Vấn đề này đã được các giáo sư nghiên cứu và viết thành nhiều cuốn sách mà tiêu biểu là cuốn “Phân tích tổng hợp Văn học dân gian” của giáo sư Đỗ Bình Trị. Nhưng với công trình nghiên cứu đó mới đưa ra vấn để ở mức độ chung chung, mang tính lý thuyết, chưa đi vào cụ thể một vấn đề. Cho nên trong bài viết này người viết mong muốn trên cơ sở học tập với những kết quả đã được nghiên cứu của những người đi trước cùng với sự suy nghĩ sáng tạo của bản thân để đi vào một vấn đề cụ thể, thiết thực, đáp ứng nhu cầu Dạy-học một mảng kiến thức trong chương trình Ngữ văn 6 thể loại truyện cười. Người viết: Lê Hòa Bình
  3. 3 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 III. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu tổng hợp các đặc điểm nổi bật của truyện cười từ đó tìm ra cách giảng dạy có hiệu quả. IV. Dự kiến những đóng góp Trên cơ sở là một số ý kiến cá nhân, sáng kiến kinh nghiệm mong muốn được sự góp ý của các đồng nghiệp để cho việc giảng dạy bộ môn đạt được kết quả cao. V.Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu và đối tượng 1. Phương pháp nghiên cứu. Trước hết người viết sáng kiến này đi từ những vấn đề lý thuyết mang tính định hướng. Đó là bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học của các giáo sư, các nhà nghiên cứu lý luận về Truyện cười. Từ việc nghiên cứu người viết đã áp dụng lý thuyết vào thực tiễn giảng dạy của bản thân qua nhiều năm giảng dạy. Trên cơ sở thực tế, qua các giờ chuyên đề và trao đổi trực tiếp với các giáo viên giảng dạy và sự tiếp thu của học sinh, người viết Sáng kiến kinh nghiệm đã kết hợp với các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp học - tiếp xúc văn bản. - Phương pháp khái quát vấn đề. - Phương pháp phân tích tổng hợp giúp học sinh đi từ những ấn tượng tổng quát đến chi tiết cụ thể và từ cụ thể quay trở lại nhận thức tổng quát. Người viết: Lê Hòa Bình
  4. 4 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Tuy nhiên việc áp dụng những phương pháp này hết sức sáng tạo, tuỳ từ hoàn cảnh cụ thể để đem lại kết quả cao. 2. Nguồn tư liệu: Tác giả của Sáng kiến kinh nghiệm khi nghiên cứu có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về phương pháp phân tích tác phẩm văn học dân gian. Cụ thể: - Phân tích tổng hợp Văn học dân gian - Truyện cười Việt Nam. Ngoài ra còn tham khảo một số các bài viết của các tác giả trong báo “Thế giới quanh ta”, “Văn học và tuổi trẻ”. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Trường Tộ, quận Đống Đa, Hà Nội. - Thông qua quá trình giảng dạy học sinh lớp 6 để rút ra những vấn đề mang tính lý thuyết và thể nghiệm kết quả nghiên cứu. Người viết: Lê Hòa Bình
  5. 5 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 VI. Bố cục Sáng kiến kinh nghiệm gồm: 33 trang Chia làm 3 phần: Phần A: Phần mở đầu Gồm 6 mục: Mục I: Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm. Mục II: Lịch sử vấn đề. Mục III: Nhiệm vụ nghiên cứu. Mục IV: Dự kiến những đóng góp. Mục V:Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu và đối tượng Mục VI: Bố cục. Phần B: Nội dung Gồm 2 chương mục: Chương mục I: Kết quả nghiên cứu về lý luận. Chương mục II: Bài soạn thực nghiệm. Phần C: Kết luận Gồm 2 thư mục: Mục I: Kết luận. Mục II: Những kiến nghị. Người viết: Lê Hòa Bình
  6. 6 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Phần 2 nội dung Chương I: Kết quả nghiên cứu về lý luận I. Cơ sở hình thành cách dạy học truyện cười 1. Mục tiêu môn học: Chương trình ngữ văn hoá bậc THCS nói chung và chương trình Ngữ văn 6 nói riêng đặt mục tiêu trước tiên, cao nhất là góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác. Đó là những con người có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị những con người có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ. ở phạm vi nhỏ hơn Truyện cười hướng các em tìm hiểu những hành vi thói quen, nững tật xấu có tính chất phổ biến (Hay khoe khoang, sỹ diện, ích kỷ). Qua đó các em tự rút ra những bài học cần thiết cho bản thân mình. 2. Viêc dạy học bộ môn theo quan điểm tích hợp: Cùng với sự ra đời của SGK Ngữ văn 6 thì quan điểm dạy học tích hợp được lấy làm nguyên tắc tổ chức nội dung chương trình Tích hợp là quan điểm phối kết hợp các tri thức của một số môn học có nét tương đồng vào một lĩnh vực chung. Đây không phải quan điểm hoàn toàn mới, bởi trên thực tế, nhiều nh giáo có kinh nghiệm đã Người viết: Lê Hòa Bình
  7. 7 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 dùng, ngay cả giáo viên trong các bài giảng đã “động chạm” đến. Nhưng đó chỉ là một việc làm không thường xuyên, không triệt để, không trở thành yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, dạy ba phân môn như một thể thống nhất là vấn đề rất mới mẻ, yêu cầu vừa giữ được đặc trưng cơ bản của từng phân môn vừa hoà nhập để hướng tới một mục tiêu. Để làm được điều này, giáo viên phải có sự sáng tạo, phải đầu tư thời gian trong quá trình soạn giảng, tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phân môn và tích hợp trong từng thời điểm, từng vấn đề. Đối với học sinh học theo quan điểm tích hợp các em sẽ có điều kiện khắc sâu kiến thức, nắm chắc bài ở cả ba phân môn. Từ đó hình thành và rèn luyện co các em 4 kỹ năng: Nghe-Nói-Đọc-Viết (hiểu theo nghĩa rộng nhất). 3. Những đặc trưng của thể loại truyện cười: Muốn dạy tốt thể loại truyện cười, giáo viên cần nắm được những đặc điểm nổi bật của thể loại để có thể vận dụng tốt trong từng bài dạy cụ thể. Đồng thời nhận diện đúng các truyện cười được chọn lọc trong chương trình ngữ văn 6 để xác định đúng yêu cầu, mức độ và cách Dạy- Học cho sát với đối tượng. Truyện cười là những truyện kể về hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của người đời, nhằm gây ra cái cười. Căn cứ vào tính chất của cái đáng cười như đã nói ở trên người ta tạm chia truyện cười thành hai tiểu loại: + Truyện hài hước (truyện khi hài). Người viết: Lê Hòa Bình
  8. 8 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 + Truyên châm biếm (truyện trào phúng). Ranh giới giữa hài hước và châm biếm không phải lúc nào cũng rõ ràng rành mạch. Nhưng viêc phân biệt hài hước với châm biếm lại thường được nhấn mạnh như một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong sử dụng cái cười. Về đại thể có thể phân biệt một cách quy ước là: Truyện hài hước chủ yếu nhằm mục đích mua vui tuy cũng có thể có ý nghĩa phê phán, còn truyện châm biếm tuy cũng có tác dụng giải trí nhưng dụng ý là nhằm đả kích; do đó, truyện hài hước chuyên về khai thác các hiện tượng buồn cười ở những hiểu lầm, những lầm lỡ, hớ hênh thường tình hoặc những nhược điểm phổ biến của một lứa tuổi, một nghề nghiệp, một địa phương, thậm chí, ở những khuyết tật bẩm sinh (lẽ ra không nên đem ra cười cợt) của người ta, còn truyện châm biếm thường tìm cái đáng cười ở những hiện tượng những hành vi bộc lộ nét bản chất của cái thói xấu làm ảnh hưởng đến thể thống con người, những thói xấu phản xã hội. Đề tài của cái cười rất rộng. Người ra tìm cái cười ở mọi lĩnh vực, mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nhưng người ta có thể nghĩ ra cái cười về đủ mọi truyện. Người ta cũng có thể biến ngay những điều nghiêm túc thành truyện buồn cười. Nhưng hệ đề tài của truyện cười dân gian thì có giới hạn. Sau đây là những đề tài tương đối “chụm” của truyện cười dân gian Việt Nam. + Những cái xấu thuộc về bản chất bộc lộ chủ yếu ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến: vua chúa, quan lại, địa chủ, phú ông. Người viết: Lê Hòa Bình
  9. 9 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 + Những thói xấu “thông thường” ở người bình dân bộc lộ những gì buồn cười trong hành động của họ. + Những hiện tượng buồn cười do hiểu lầm, lầm lỡ, hớ hênh, mà thường tình cũng có thể có lúc mắc phải, hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây tổn hại cho ai. b.Về chức năng: Truyện cười là truyện để cười, tức là để gây ra cái cười. Muốn hiểu được mục đích đó cần làm rõ hai khái niệm: Cái đáng cười và cái cười. + Cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với nội dung bên trong nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp, tóm lại đó là những hiện tượng ở đó có một cái gì đó ngược đời. + Cái cười là hành động cười, do cái đáng cười gây ra và do trí óc ta phát hiện ra cái đáng cười. Nhưng, có cái đáng cười mà trí óc ta không phát hiện ra nó, tức là không phát hiện ra cái ngược đời ở hiện tượng thì cũng không có cái cười. (Ta có thể kiểm nghiệm được điều này khi quan sát trường hợp: cùng nghe kể truyện cười hoặc xem một tranh cười, có người cười trước, người cười sau, và có khi có người “nghĩ mãi” mới cười được). Cái cười hài hước và cái cười châm biếm là sản phẩm của nhận thức lý tính. Khi ta cười trước một hiện tượng, một hành vi nào đó mà ta nghe, ta thấy, ta xem, chính là tư duy phát hiện ra cái ngược đời mang bề ngoài hợp lẽ đời đã “đánh lừa” luận lý của nó. Sự phát hiện Người viết: Lê Hòa Bình
  10. 10 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 đó đem lại niềm vui; tựa hồ như tư duy ta thích thú với sự “khám phá” đó, làm nở ra cái cười trong óc (người ta có thể cười mà không nhếch mép); cái cười đi từ óc ra môi, miệng, thành tiếng cười cả trăm cung bậc, sắc thái (tuỳ theo tính chất cái đáng cười và cái tạng của người cười). Đồng thời, bản thân sự phát hiện ra cái đáng cười cũng bao hàm một ý nghĩa phê phán nhất định, theo nghĩa rộng của từ này - phê phán từ quan điểm của tư duy, logíc, duy lý và hoặc phê phán từ quan điểm của ý thức tư tưởng (ý nghĩa này chỉ có ở cái cười châm biếm). Hiểu như trên, chúng ta sẽ thấy không có gì phải phân vân khi nói truyện cười làm ra là để cười. Vì mục đích “mua vui” và mục đích “phê phán” nằm ngay ở cái cười do truyện gây ra. Chức năng sinh hoạt của truyện cười dân gian gắn với ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội sắc bén của nó. Do đó, truyện cười là thể loại có sức lưu truyền rất mạnh. Tuy nó không có chức năng răn dạy trực tiếp như truyện cổ tích, truyền thuyết, nhưng truyện có tác dụng giáo dục độc đáo: nó mài sắc tư duy suy lý, nó làm giàu óc phê phán, giúp trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ. Chúng ta hiểu vì sao những người có tài hài hước, châm biếm thường nhanh nhậy, thông minh, sắc sảo, thú vị trong ứng đối. Xưa kia, ông cha ta đã tỏ ra rất biết cách bày cho trẻ vui chơi, làm cho trẻ em vui cười bằng phong cách thiếu nhi và dạy trẻ qua cách đó. Trước nay, Maxim Gorki cũng đòi hỏi “phải vạch rõ một cách tài tình và dí dỏm cho trẻ thấy những tật xấu của quá khứ”. Truyện cười dân gian không thuộc kho tàng văn hoá dân gian thiếu nhi nhưng chúng ta có thể lựa chọn trong đó một số truyện hài hước và một ít truyện châm biếm nhẹ nhàng cho các em đọc và tập phân tích. Người viết: Lê Hòa Bình
  11. 11 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Việc này chẳng những khiến cho chương trình và SGK Văn học trở nên hấp dẫn hơn với các em mà còn giúp các em phát triển về nhiều mặt như đã nói ở trên. c. Về thi pháp: Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất. Dài cũng chỉ từ 15-20 câu. Ngắn thì 5-7 câu. Trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy ngắn thế, nhưng cũng là “cả một câu chuyện” có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Và cũng có nhân vật, lại phần lớn là nhân vật “có nét” khó quên. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp truyện cười như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ kể truyện đều phục vụ mục đích gây cười. + Về kết cấu. Mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe (hoặc người đọc) tự mình phát hiện ra nó mà bật cười. Cái đáng cười có thể là một thói xấu nào đó, chẳng hạn thói keo kiệt (Ví dụ: Thà chết còn hơn). Nhưng bản thân thói xấu chưa đủ gay kinh khủng, keo kiệt đến mức coi đồng tiền hơn cả tính mạng mình , thì chẳng ai nhếch mép. Người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng bộc lộ dưới dạng cái ngược đời: đó là đặt anh keo kiệt vào hoàn cảnh dẫn tới tình huống phải lựa chọn giữa “ba quan tiền giắt lưng” và việc chết đuối với ba quan tiền ấy. Vì cái đáng cười là hiện tượng có mâu thuẫn- một loại mâu thuẫn đặc biệt nên truyện cười được cấu tạo như một màn kịch. - Giới thiệu hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng. Người viết: Lê Hòa Bình
  12. 12 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển đến đỉnh điểm. - Mâu thuẫn bộc lộ (mâu thuẫn được “giải quyết”). ở đây cần nói rõ thêm hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng là hiện tượng mang sẵn cái đáng cười chỉ nhờ có điều kiện để tự bộc lộ và bị phát hiện. Với truyện cười (không phải với nghệ thuật kịch) “mâu thuẫn được giải quyết”, đó là lúc cái đáng cười buông lửng hay có kết thúc: truyện cười không tự đặt cho mình nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân vật như truyện cổ tích. Nó chỉ kể lại một câu chuyện buồn cười nhằm mục đích gây cười. Khi cái cười nổ ra tức là mục đích của truyện đã đạt và chuyện cũng kết thúc ở đây. Truyện cười bao giờ cũng có kết thúc, kết thúc trọn vẹn. Có những truyện cười gây cái cười rền. Có những truyện cười chỉ gây ra cái cười ở điểm kết. Nhưng truyên cười luôn luôn dành cho người nghe cái cười đích đáng nhất ở chỗ kết thúc. Đó là chỗ người nghe bị bất ngờ hơn cả. Điều này cũng chứng tỏ truyện cười dân gian thường được cấu tạo một cách hết sức chặt chẽ, đặc biệt trong việc lựa chọn, bố trí, sắp xếp các chi tiết. + Về nhân vật: Nhân vật trong truyện cổ tích có cả một số phận, một cuộc đời. Nhân vật của truyện cười không có bề dày như thế. Nhân vật truyện cười đơn giản chỉ là hành vi ứng xử của nó trong một hoàn cảnh nhất định vàhành vi ứng xử ấy luôn luôn biểu hiện ở lời nói (không phải ngẫu nhiên mà truyện cười thường được các nhà nghiên cứu Tiếng Việt sử dụng như một thứ ngữ liệu đặc sắc). Người viết: Lê Hòa Bình
  13. 13 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Vấn đề đặt ra là đối tượng của cái cười trong truyện cười là cái đáng cười mà nhân vật để lộ ra qua hành vi ứng xử của nó hay là bản thân nhân vật ấy? Ta có thể nhận thấy: Có những trường hợp, khi ta cười, ta chú ý đến cái đáng cười hơn là người gây ra cái đáng cười, nói cách khác ta cười cái đáng cười hơn là cười nhân vật gây ra cái đáng cười ấy đó là cái cười hài hước. (Ví dụ: Truyện Lợn cưới áo mới; truyện Thà chết còn hơn). Tuy nhiên, không nên quên rằng ngay cả với những trường hợp truyện cười ra đòn châm biếm “chết người” (Quan huyện thanh liêm; Thơm rồi lại thối), công việc phân tích vẫn phải tập trung vào cái đáng cười chứ không tiến hành theo hướng phân tích nhân vật. + Về cách tạo tình huống. Truyện cười Việt Nam thường bật ra ngay tiếng cười khi đọc truyện hoặc nghe truyện. Điều này khác hẳn truyện cười các nước khác. Truyện cười phương Tây khi đọc xong phải suy nghĩ một lúc thì tiếng cười mới bật ra. Truyện cười Trung Quốc thường có nét thâm thuý riêng, nên ở nhiều truyện cũng phải suy nghĩ một lúc thì mới thấy tiếng cười ẩn chứa trong từng dòng chữ triết lý. Truyện cười Việt Nam không thế, khi đọc truyện, nghe truyện, cảm tính và lý trí cũng được tác động và tiếng cười lập tức oà ra một cách khoái trá, như không thể cưỡng nổi. Đó là tiếng cười được tạo nên do những hiện tượng đáng cười chứ không phải do suy nghĩ mang tính triết lý. Truyện cười Việt Nam đã tạo ra được những kịch tính và tình huống rất hay để gây cười làm cho tiếng cười bật ra một cách dễ dàng Người viết: Lê Hòa Bình
  14. 14 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 khoái trá. Vì vậy khi đọc truyện cười cần chú ý đến kịch tính và cách tạo tình huống gây cười. Truyện cười thường ngắn gọn có khi rất ngắn giống như một màn kịch đặc sắc, có kết cấu chặt chẽ. Khi tiếng cười oà ra thì truyện cũng kết thúc, tác giả dân gian không cần dài lời để triết lý, bình luận gì cả. Cách kết thúc ấy thường đột ngột làm cho tiếng cười bật ra nhưng lại ngân vang để giữ mãi tiếng cười sảng khoái thú vị trong lòng người đọc, người nghe. Vì vậy có thể xem phần kết thúc là phần hay nhất, là phần kết tinh thăng hoa của truyện cười Việt Nam. Khi dạy học cần hướng sự chú ý của học sinh vào phần kết thúc truyện để tìm hiểu và khai thác hết cái hay của nó. II. Về CÔNG VIệC PHÂN TíCH TRUYệN CƯờI. 1. Định hướng phân tích nội dung: Thấu suốt bản chất của cái cười và hiểu mục đích của truyện cười là gây ra cái cười, ta sẽ nhận rõ nhiệm vụ của bài học về truyện cười, trước hết là phải giúp học sinh hiểu được họ cười cái gì? Vì sao mà cười? Trên thực tế không phải ai cũng giải thích được rõ ràng nguyên do cái cười của mình. Cho nên, bài học về truyện cười không thể dừng lại ở chỗ làm cho học sinh cười. Nếu thế chỉ cần kể cái chuyện cười định đem ra giảng dạy. Đối với học sinh, đọc truyện cười thì vui, nhưng phải suy nghĩ để trả lời những câu hỏi “cười cái gì” ? “Vì sao mà cười” ?, chắc không phải chuyện dễ. Tuy vậy, đó cũng không phải điều quá khó. Chỉ cần giáo viên gợi ý để các em tự mình phân tích tự nhìn lại quá trình sinh Người viết: Lê Hòa Bình
  15. 15 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 thành của cái cười trong óc các em, các em sẽ cắt nghĩa được cái cười của mình. Và các em sẽ cảm thấy hào hứng hơn so với khi chỉ cười mà không tự hỏi “mình cười cái gì” ? “Vì sao mình cười” ? Trên cơ sở yêu cầu làm cho học sinh có ý thức về cái cười của mình, lý giải được nguyên do cái cười của mình, cần hướng dẫn để các em suy nghĩ tiếp về cái đáng cười, về những điều nằm sau hành vi gây ra cái cười cùng thói xấu mà hành vi đó đã để lộ ra. ý nghĩa độc đáo của cái cười là ở chỗ nó nâng con người lên cao với hoàn cảnh. Với thói hư tật xấu, khi ta cười nó, ta đứng ở vị trí bên trên nó. Như vậy, cái cười, ở chiều sâu của nó, dường như luôn có một cái gốc là những cảm xúc thấm đượm chất nhân văn- đó là niềm mong muốn con người sống tốt đẹp hơn. Người giáo viên nếu có một cái nhìn bao quát có thể nhận thấy một số điều có ý nghĩa sâu xa hơn so với bản thân sự phân bản ở từng truyện. Tuy chỉ dạy một ít truyện lẻ (Hiện nay là hai truyện trong chương trình ngữ văn 6) nhưng cần nắm được ý nghĩa chung của cả hai bức ký hoạ về một hình thái xã hội đang biến thành “tấn hài kịch của nó” trên sân khấu lịch sử. Điều này rất có ích cho việc nhận thức định hướng chung của phân tích truyện cười Việt Nam. 2. Phân tích tình tiết nêu bật cái đáng cười. Nghệ thuật gây cười của truyện dân gian khá phong phú. Nhưng biện pháp nghệ thuật quan trọng nhất của thể loại này là cách cấu tạo truyện. Nét chung của cách cấu tạo này đã được trình bày ở mục Thi Người viết: Lê Hòa Bình
  16. 16 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 pháp. Có thể tìm thấy ở đó những chỉ dẫn cơ bản về phương pháp phân tích truyện cười. Trước hết công việc phân tích phải hướng vào yêu cầu làm rõ cái đáng cười thường được dàn dựng theo nguyên tắc “tự phơi bày” để người nghe, người đọc tự phát hiện qua một tình tiết gồm ba chặng, cho nên công việc phân tích cũng thường có thể tiến hành theo ba phân đoạn của hoàn cảnh: +Phân đoạn đầu: Ngay từ đầu câu truyện, nhân vật có thói xấu hay tính cách dẫn đến hành vi buồn cười đã được giới thiệu không úp mở: - Có anh tính hay khoe của (Lợn cưới, áo mới) Cũng ngay ở đầu câu chuyện, nhân vật ấy được đặt vào một tình thế khiến cho nó trở thành một hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng. - Anh có tính hay khoe khoang của may được áo mới, liền đem ra mặc từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả (Lợn cưới, áo mới). Phân đoạn đầu được gọi là tình thế mở đầu. Phân tích tình thế mở đầu là gợi cho học sinh rõ hai nội dung chính nói trên (giới thiệu nhân vật và đặt nhân vật vào tình thế “có mâu thuẫn tiềm tàng”), chủ yếu là cái mâu thuẫn cụ thể ở thể tiềm tàng (đang chờ dịp để bộc lộ). + Phân đoạn nút. Đến đây, mâu thuẫn tiềm tàng đã phát triển rất mau lẹ tới điểm nút. Người viết: Lê Hòa Bình
  17. 17 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Anh “áo mới” đang tức vì đứng hóng mãi chưa có ai để khoe thì anh “lợn cưới” chạy đến nhưng lại bị anh này khoe trước (Lợn cưới, áo mới). Phân đoạn nút có thể được gọi là tình thế gay cấn. Phân tích tình thế gay cấn là gợi cho học sinh điểm lại diễn biến của của sự việc từ tình thế mở đầu đến điểm nút, nhận rõ mâu thuẫn cụ thể ở tình thế gay cấn (Ví dụ: anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới”, đã bị anh này vừa hỏi vừa khoe,v.v.). Đến đây, người nghe, người đọc cũng ở vào thế chờ xem đầy kịch tính. (Cần chú ý rằng: ở những chuyện gây ra một tràng cười, cười rền, thì “điểm nút” dường như cũng di động, tạo thành một chuỗi “điểm nút”, nhưng “điểm nút” đích thực vẫn ở chỗ kết thúc). + Phân đoạn kết thúc. Nhân vật bị đặt vào tình thế có mâu thuẫn “giải quyết” mâu thuẫn ngay ở “điểm nút” bằng một hành vi, một lời nói bất ngờ làm bộc lộ cái đáng cười. - Anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới”, bị một - không (tức là đang lăm le khoe, lại bị “nó” khoe), lại ở thế phải trả lời, vậy mà “lật lại được thế cờ”, vẫn trả lời nghiêm chỉnh theo đúng phép tắc (dùng kiểu câu có mệnh đề phụ làm chức năng trạng ngữ chỉ thời gian), đồng thời “tranh thủ cung cấp được thông tin cần thiết”: “từ lúc tôi mặc áo mới này” (Lợn cưới, áo mới). Phân tích đoạn kết thúc gợi cho học sinh tự mình nhận ra cái đáng cười, tự mình chỉ rõ cái đáng cười bất ngờ bộc lộ ở hành vi, lời Người viết: Lê Hòa Bình
  18. 18 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 nói của nhân vật trực tiếp gay ra cái cười, tức là chỉ rõ hành vi, lời nói đó có cái gì ngược đời. Thực hiện được yêu cầu này có nghĩa là đã trả lời được câu hỏi “vì sao mình cười” ?, “mình cười cái gì”. - Như đã nói ở mục Định hướng phân tích nội dung, công việc phân tích truyện cười phải bắt đầu từ việc làm rõ cái đáng cười nhưng không dừng lại ở đấy. Cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ tiếp về những vấn đề thuộc về ý nghĩa của cái cười trong truyện (ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội). 3. Phân tích ý nghĩa của cái cười: - Nếu định nghĩa “Cái đáng cười là cái xấu” được coi là đúng thì khái niệm “cái xấu” ở đây chắc chắn phải được hiểu theo nghĩa rộng - nó vừa gồm những “thói hư tật xấu” (xét chung, đồng thời dựa theo chuẩn mực về tốt - xấu của mỗi thời đại, mỗi xã hội); vừa gồm những cái không thích hợp. Hiểu như vậy thì có thể chấp nhận quan niệm cho rằng: cái cười, trong bản chất của nó, luôn luôn có ý nghĩa phê phán. Với những truyện cười châm biếm những thói hư tật xấu thì chắc không ai hoài nghi gì cả về ý nghĩa lẫn mục đích phê phán của nó. (Nói “mục đích” là nói về chủ định chủ quan của những người đặt truyện, nói “ý nghĩa” là nói về tác dụng khách quan của truyện). Nhưng với những truyện hài hước thì ý nghĩa phê phán là ở mặt nào?. Vậy, nếu ta muốn đề cập “ý nghĩa phê phán” của truyện, thì chỉ nên coi đó là một thứ “phản ứng tự động” tư duy suy lý. Tất nhiên, cái cười hài hước vẫn có tác dụng giáo dục về nhiều mặt, như đã nêu ở mục chức năng. Người viết: Lê Hòa Bình
  19. 19 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Khi nói về ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội của cái cười, người ta thường nghĩ, chủ yếu đến cái cười châm biếm. Cái cười châm biếm cũng phải tìm cái đáng cười ở những hiện tượng, những hành vi trái tự nhiên, ngược đời như cái cười hài hước. Những dụng ý phê phán của nó thể hiện rõ ở chỗ nó luôn luôn tìm cái cười ở những hiện tượng, những hành vi trái tự nhiên, ngược đời nảy sinh từ những thói xấu, những tính cách đặc biệt liền với bản chất của một tầng lớp xã hội, một số loại người. Do đó, cần hướng dẫn để học sinh suy nghĩ đến mục đích, ý nghĩa phê phán của cái cười châm biếm từ quan điểm đạo đức, quan điểm ý thức tư tưởng, quan điểm đấu tranh xã hội. ở đây, có một điểm cần lưu ý là; hành vi gây ra cái cười châm biếm ít khi bộc lộ một cách hồn nhiên như hành vi gây cái cười, cần cân nhắc kỹ: trường hợp nào dừng lại ở việc phân tích hành vi, trường hợp nào tiến thêm tới chỗ nhận xét về nhân vật. Đó chính là đối tượng thực sự của ngọn roi châm biếm. iv. dạy - học truyện cười trong chương trình ngữ văn 6 1. Nhận diện các văn bản truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6 SGK Ngữ văn 6 tuyển chọn hai truyện cười "Treo biển" và "Lợn cưới áo mới" là truyện trào phúng, cái cười thiên về ý nghĩa phê phán nhưng chỉ là phê phán nhẹ nhàng có tính chất giáo dục. Có thể nói hai văn bản trên là những văn bản hay, tiêu biểu cho tiếng cười của người bình dân. Nội dung lại là những câu truyện ngộ nghĩnh, phù hợp gần gũi với lứa tuổi học sinh lớp 6. Về hình thức nghệ Người viết: Lê Hòa Bình
  20. 20 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 thuật thì đây là những truyện cười có kết cấu chặt chẽ, cách kể truyện dí dỏm, kịch tính cao, tình huống gây cười đặc sắc. Các truyện đều ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp tâm lý, trình độ nhận thức của học sinh lứa tuổi 11-12. 2. Phân biệt truyện cười với truyện ngụ ngôn: Để hiểu rõ hơn đặc trưng bản chất của truyện cười, ta có thể so sánh truyện cười với truyện ngụ ngôn. Truyện cười và truyện ngụ ngôn có những điểm giống nhau: Đều có những hiện tượng đáng cười, những cái trái với tự nhiên, không hợp với lẽ thường và đều có thể gây cười. Ví dụ: "Thầy bói xem voi" là hai truyện ngụ ngôn có hiện tượng đáng cười đều có thể gây cười. Nhưng những truyện ngụ ngôn có yếu tố gây cười chiếm không nhiều lắm. Nhìn một cách chặt chẽ hai thể loại này lại có nhiều điểm khác nhau. Nếu tiếng cười nổ ra để mua vui hoặc phê phán là mục đích của truyện cười thì mục đích của truyện ngụ ngôn lại là việc rút ra một bài học luân lý, một triết lý ngụ ngôn trong câu chuyện. Như truyện "Treo biển" (truyện cười) và truyện "Đẽo cày giữa đường" (truyện ngụ ngôn) có thể thấy na ná giống nhau: Một bên là anh "Đẽo cày giữa đường", một bên là anh "bán cá giữa phố". Cả hai anh đều nghe theo tất cả những lời góp ý của mọi người qua đường để rồi một anh thì "vốn liếng đi đời nhà ma" còn một anh thì "hạ cái biển bán hàng xuống". Thế nhưng truyện "Đẽo cày giữa đường" thì có hẳn Người viết: Lê Hòa Bình
  21. 21 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 một câu cuối để rút ra bài học luân lý, còn truyện "bán cá" thì khi cất cái biển xuống, tiếng cười lại bật lên, truyện kết thúc ngay. Tóm lại, vấn đề so sánh truyện cười và truyện ngụ ngôn là vấn đề hoàn toàn không đơn giản, cần được các nhà nghiên cứu chuyên môn, các nhà giáo nghiên cứu thêm. Những ý kiến trên đây xin được coi là những gợi ý ban đầu được rút ra từ việc dạy học. Để hướng học sinh biết cách so sánh hai thể loại truyện này thiết nghĩ giáo viên có những định hướng cụ thể, cần thiết. 3. Dạy - học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6: Thực ra khi đọc truyện cười (quá trình đọc, hiểu văn bản) các em đã có thể bật ra tiếng cười. Nhưng dạy - học là phải làm cho cái tiếng cười ấy bật ra một cách khoái trá, hứng khởi, thích thú. Để làm được điều đó nên tập trung khai thác sâu về mặt nghệ thuật của truyện cười về mặt nội dung: truyện cười Việt Nam rất dễ hiểu, đọc lên có thể hiểu ngay). Chỉ có khai thác về nghệ thuật thì học sinh mới có cảm nhận được cái hay, cái thú vị của tiếng cười bật ra từ câu chuyện, từ đó, mà nhận ra một cách sâu sắc ý nghĩa của tiếng cười. Qua quá trình thử nghiệm về việc Dạy - học truyện cười, người viết Sáng kiến kinh nghiệm đã định hướng cho học sinh đi sâu và tìm hiểu, phân tích các mặt nghệ thuật sau: + Cách xây dựng kịch tính. + Cách sáng tạo tình huống gây cười. + Cách kết thúc của truyện. Trong quá trình giảng dạy cần chú ý vào những vấn đề sau: Người viết: Lê Hòa Bình
  22. 22 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 + Giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chủ động tiếp cận tác phẩm theo hướng đọc -> suy ngẫm -> liên tưởng. Đặc biệt thao tác đọc - kể. Đây là thao tác hỗ trợ cho giảng - cảm thụ cái hay của truyện: đọc diễn cảm, đọc sáng tạo đặc biệt những đoạn văn đối thoại, những từ ngữ quan trọng sẽ giúp cho việc khai thác, phân tích truyện đạt kết quả cao. + Cần phát huy cách học, thảo luận theo nhóm, tổ (với các vấn đề lý thú, nổi cộm trong truyện). Tăng cường luyện tập, thực hành. + Để đáp ứng các yêu cầu về việc dạy - học theo quan điểm đổi mới giáo viên cần phải tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phân môn để tích hợp. Dạy - học theo quan điểm đó thể hiện rõ nhất trong mỗi bài giảng, là ở hệ thống câu hỏi và bài tập luyện tập. Cần đặt ra các tình huống, khuyến khích học sinh giải quyết các tình huống bằng nhiều hình thức khác nhau. Tăng cường hệ thống câu hỏi mở, câu hỏi sáng tạo, nhằm hình thành tính năng động trong học sinh. Ví dụ: khi giảng dạy "Treo biển, Lợn cưới áo mới" để làm nổi bật yếu tố gây cười và ý nghĩa của cái cười giáo viên cần tập trung vào việc khai thác các từ ngữ quan trọng trong văn bản, cách xây dựng kịch tính, cách tạo tình huống, cách kể chuyện dí dỏm, cách kết thúc của truyện. Làm được điều đó chúng ta không chỉ cho học sinh nắm bắt được kiến thức cơ bản của văn bản mà còn củng cố cho học sinh một lượng kiến thức về Tiếng việt và Tập làm văn. Tuy nhiên, để giữ được đặc trưng cơ bản của bộ môn, ở mỗi truyện, giáo viên cần có cách khai thác riêng sao cho học sinh thấy rõ đặc sắc về nghệ thuật của truyện cười Người viết: Lê Hòa Bình
  23. 23 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 Chương 2 bài soạn thực nghiệm Tiết 51 - Bài 12 Treo biển - Lợn cưới áo mới (Truyện cười) A. mục tiêu cần đạt * Học sinh nắm được định nghĩa truyện cười. * Hiểu được nội dung ý nghĩa và nghệ thuật gây cười của truyện "Treo biển", "Lợn cưới áo mới". * Kể lại được hai truyện này. B. tiến trình lên lớp Bước 1 - Tổ chức Bước 2 - Kiểm tra Bước 3 - Bài mới * Giới thiệu bài: Người Việt Nam rất biết cười, dù ở trong tình huống, hoàn cảnh nào. Vì vậy, rừng cười Việt Nam rất phong phú, có đủ màu sắc, cung bậc khác nhau. Có tiếng cười mua vui hóm hỉnh, lại có tiếng cười sâu cay, châm biếm, phê phán những thói hư tật xấu. "Treo biển" và "Lợn cưới áo mới" là một ví dụ. A. Treo biển I. Tiếp xúc với văn bản (Giáo viên đọc mẫu gọi 3 học 1. Đọc, kể: sinh đọc, 1 học sinh kể) - Yêu cầu: đọc to, rõ ràng, diễn (Đọc phân vai) cảm, chú ý các đoạn hội thoại Người viết: Lê Hòa Bình
  24. 24 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Kể: Đọc chú thích sao cho biết thế 2. Chú thích: nào là truyện cười. - Truyện cười: là loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán thói hư, tật xấu của con người. - Chú ý các chú thích khác (SGK) 3. Bố cục: 3 phần Mở đầu: Giới thiệu việc treo biển. Diễn biến: Việc treo biển Kết thúc: Kết thúc sự việc. - Tác giả dân gian chọn sự II. Phân tích văn bản việc gì để gây cười. 1. Việc treo biển: - Đọc các từ ngữ trên tấm biển. - Tấm biển: "ở đây có bán cá tươi" Tấm biển có mấy yếu tố ? Các yếu tố thông báo nội dung gì ? H: ở đây (trạng ngữ) thông báo địa điểm cửa hàng. + Có bán (động từ): Hoạt động của cửa hàng. + Cá (danh từ): mặt hàng. + Tươi (tính từ): chất lượng hàng. - Từ những yếu tố đó em có nhận xét gì về nội dung tấm biển ? Nội dung đúng, đủ, cần thiết để quảng cáo. - Khi đọc tấm biển người mua - Góp ý: Về chữ "tươi" = mất chất hàng góp ý cái gì ? lượng Người viết: Lê Hòa Bình
  25. 25 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 "ở đây" = mất địa điểm - Họ đưa ra lý lẽ như thế nào ? "có bán" = mất hoạt động "cá" = mất mặt hàng - Phân tích cái đáng cười của Cách góp ý: thực chất là bắt bẻ họ ? từng chữ, đó là điều không bình thường. Điều đó chứng tỏ họ không hiểu mục đích của việc treo biển, không thấy vai trò của từng từ ngữ trên biển và mối quan hệ giữa chúng. - Nhà hàng: nghe nói -> bỏ ngay -> cất biển Nghe những lời góp ý kiểu "Vô - Trước những lời góp ý, thái thưởng vô phạt", "bới bèo ra bọ" mà độ nhà hàng ra sao ? không suy nghĩ, tiếp thu một cách dễ dãi, thiếu tự chủ. (Đáng cười: (Thái độ ấy được thể hiện ở chính nhà hàng treo biển mà không những từ ngữ nào hành động hiểu mục đích việc mình làm. Tiếng nào). cười bật lên sảng khoái ở cuối truyện khi nhà hàng cất biển). - Cái đáng cười ở nhà hàng là 2. ý nghĩa cảu truyện: ở chỗ nào ? - Truyện dùng tiếng cười nhằm - Truyện dùng tiếng cười vui vẻ để vào mục đích gì ? phê phán nhẹ nhàng những người không có chủ kiến khi làm việc. - Bài học: + Trước những lời góp ý cần suy xét kỹ càng. - Qua đó rút ra bài học gì cho bản thân. + Phải có chủ kiến và tiếp thu chọn lọc ý kiến của người khác. - Em có nhận xét gì về nghệ III. Tổng kết Người viết: Lê Hòa Bình
  26. 26 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 thuật của truyện ? - Nghệ thuật: ngắn gọn, hàm súc, - Đọc ghi nhớ - SGK) dẫn dắt khéo léo, chọn chi tiết gây cười thú vị. - Nội dung: (ghi nhớ SGK). B. Lợn cưới áo mới Giáo viên hướng dẫn cách đọc I. Đọc, tìm hiểu chung (Đọc phân vai) 1. Đọc, kể. (Gọi 3 học sinh đọc, 1 học - Yêu cầu: đọc to, rõ ràng, nhấn sinh kể) mạnh từ ngữ quan trọng, đặc biệt đoạn hội thoại. - Kể. 2. Chú thích (SGK). - Tác giả chọn tình huống nào 3. Bố cục. để gây cười ? Nếu chọn tình II. Tìm hiểu văn bản huống khác thì sao ? Em hiểu thế nào là tính hay khoe của ? H: Khoe của là kẻ có của thích đem phô trương sự giàu có hơn người của mình (Một thói xấu, hai nhân vật thích khoe của ở đây đã khoe mình có những gì ?) H: Những của được khoe: - 1 cái áo mới - 1 con lợn Theo em của để họ đem ra khoe ấy có đáng để khoe không ? Vì sao ? H: Không ! Vì đó là những thứ Người viết: Lê Hòa Bình
  27. 27 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 bình thường ! Đem cái bình thường ra để khoe là mình có của điều đó có đáng cười không ? Vì sao ? H: Buồn cười vì khoe của đã là tính xấu ở đây lại khoe cái chẳng đáng gì ? Nội dung truyện muốn chế giễu tính xấu gì ? H: Chế giễu tính khoe khoang nhất là khoe của. Chú ý: Đáng cười hơn là cách 1. Hai anh khoe của gặp nhau khoe của của họ. Tác giả đã chọn tình huống nào đề khoe của ? Nếu chọn tình huống khác thì sao ? H: Tình huống gây cười đặc sắc thú vị: Người hay khoe của lại khoe đúng vào người hay khoe của. H: Tình huống gây cười đặc sắc thú vị: người hay khoe của lại khoe đúng vào người hay khoe của. Tác giả rất cao tay khi tạo ra tình huống: để cho "Anh áo mới" chờ khoe áo suốt từ sáng đến chiều mới gặp được "Anh lợn cưới". - Anh áo mới khoe của bằng * Anh áo mới * Anh lợn cưới cách nào ? Người viết: Lê Hòa Bình
  28. 28 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Em chú ý đến từ ngữ nào - Có áo thì mặc trong cách giới thiệu anh áo ngay mới ? - Hóng từ sáng -> chiều chờ khoe áo. - Từ các từ ngữ đó em thấy Nôn nóng, việc khoe của của anh ta có khoe khoang một chấp nhận được không ? Anh cách lố bịch ta là người như thế nào ? H: Việc khhoe áo chấp nhận được nhưng cách khoe thì quá lố bịch ngớ ngẩn. Vì thế nó gây cười. Anh lợn cưới xuất hiện vào lúc nào ? Việc anh ta xuất hiện có ý nghĩa như thế nào ? H: Anh ta xuất hiện vào lúc anh có áo mới mong muốn khoe áo nhất. Đó là cơ may cho anh áo mới. - Anh ta hỏi tìm lợn như thế nào ? Em có nhận xét gì về câu hỏi của anh ta ? Tác giả rất cao tay khi tạo ra tình huống: Để cho anh "áo mới" đợi chờ suốt từ sáng đến chiều mới gặp được "anh lợn cưới". Tìm những chi tiết kể về cách khoe của của hai anh ? - Anh có áo mới đứng hóng từ sáng đến chiều - bị khoe trước - bực tức nhưng vẫn kịp xoay chuyển tình thế bằng việc trả Người viết: Lê Hòa Bình
  29. 29 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 lời bằng hành động và lời nói. - Anh có lợn cưới: Tất tưởi chạy - hỏi to: Em có nhận xét gì về cách khoe của của anh có lợn cưới. H: Hỏi thừa định ngữ: Cưới, vì chỉ cần nói Con lợn hoặc con lợn què, lợn cọc, lợn lang nhưng lại đạt được mục đích khoe mình có của, nhà giàu, cưới vợ có lợn ? Khác anh có lợn cưới, anh có áo mới khoe của bằng cách nào ? Nhận xét về cách khoe của của anh ta ? - Trả lời câu hỏi bằng hành động -> đánh ngay vào thị giác người hỏi. - Bồi tiếp bằng câu trả lời thừa thông tin. Trạng ngữ thời gian: Từ lúc tôi mặc cái áo mới nhưng lại khoe được mình có áo mới đồng thời thiếu định ngữ "cưới" nhằm phủ nhận việc khoe giàu của anh có lợn Có sự ăn miếng cưới. trả miếng đố kỵ Nhận xét gì về việc khoe của nhau của hai anh ? H: Vì mục đích khoe là để người khác biết và khen ở đây không ai nhận được điều đó. Đọc truyện vì sao em cười ? 2. ý nghĩa của (Cười ai ? Cười cái gì ?) truyện: - Nhận xét gì về nghệ thuật - Truyện tạo tiếng cười vừa mua vui, Người viết: Lê Hòa Bình
  30. 30 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 của truyện ? vừa phê phán, đả (Truyện giống như một màn kích tính hay khoe kịch đặc sắc). của. III. Tổng kết: - Nghệ thuật: Ngắn gọn, tạo tình huống gây cười độc đáo, kết thúc bất ngờ, hấp dẫn. Nội dung: (Ghi nhớ SGK) IV. Luyện tập: Bài 1: (SGK trang 125) - Nếu là người viết biển hiệu - Học sinh đưa ra ý kiến của mình em sẽ viết gì ? và giải thích rõ tại sao ? - Qua truyện em rút ra bài học - Bài học: gì về cách dùng từ ? + Dùng từ phải có nghĩa, có lượng thông tin cần thiết. + Từ để quảng cáo cần ngắn gọn, rõ ràng, đáp ứng yêu cầu của cả người mua, người bán. Bài 2: Đọc thêm "Đẽo cày giữa đường". - So sánh truyện "Treo biển" - Hai truyện na ná giống nhau: Một với truyện "Đẽo cày giữa anh "Đẽo cày giữa đường, một anh đường" ? "bán cá giữa phố". Cả hai đều nghe theo những lời góp ý của người qua đường dẫn đến kết cục bi hài: Một anh vốn liếng đi đời nhà ma, một anh thì cất biển đi. Bước 4: Củng cố: - Nhắc lại khái niệm truyện cười và đặc điểm của truyện cười ? Người viết: Lê Hòa Bình
  31. 31 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 - Nêu bài học rút ra từ câu chuyện "Đẽo cày giữa đường" ? Bước 5: Hướng dẫn về nhà: - Kể lại các chuyện đã học. - Học bài theo nghe nhớ. - Tìm đọc các truyện cười của Việt Nam và nước ngoài. * Những ưu điểm - hạn chế trong quá trình dạy - học truyện cười ở Ngữ văn 6. + Ưu điểm: - Đối với giáo viên: Có điều kiện đi đúng phương pháp mới, là người tổ chức hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức, là trọng tài khi các em trao đổi thảo luận. - Đối với học sinh: Các em tiếp thu bài tốt, phát huy được tính chủ động tích cực sáng tạo, có điều kiện trao đổi thảo luận, trình bày ý kiến của mình. Cùng trau dồi kỹ năng nói trước tập thể về một vấn đề. + Hạn chế: - Trong thời gian một tiết học (45 phút) giao viên - học sinh phải tiếp xúc với nhiều vấn đề, làm việc nhiều nên ở một số lớp "Cháy giáo án". - ở một vài lớp học sinh chưa quen với phương pháp trao đổi, thảo luận nên hiệu quả chưa cao. c. phần kết luận I. kết luận Trong chương trình Ngữ văn ở bậc THCS - VHDG nói chung và truyện cười nói riêng có một vị trí quan trọng đối với việc bồi dưỡng Người viết: Lê Hòa Bình
  32. 32 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đạo đức, lối sống cho học sinh. Song việc Dạy - học truyện cười chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến hoặc đã nghiên cứu nhưng chưa được áp dụng rộng rãi. Giảng dạy truyện cười theo đặc trưng của nó, theo quan điểm tích hợp là một vấn đề mới mẻ. Vì vậy giáo viên cần đầu tư thời gian cho việc soạn giáo án, đọc tài liệu tham khảo, giữa các giáo viên cần có sự trao đổi, góp ý về bài giảng, phương pháp giảng dạy để giờ học thực sự có ý nghĩa với mỗi học sinh. Trong bài viết này người viết có đưa ra một phương pháp Dạy - học truyện cười trong chương trình Ngữ văn 6. Nên coi điều này là những ý kiến cá nhân chứ không phải là duy nhất đối với tất cả mọi người. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lần nói :"Nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo". Rất mong muốn thầy giáo, cô giáo bằng trách nhiệm nghề nghiệp, tình yêu đối với môn Văn chúng ta sẽ cùng đồng nghiệp tìm ra nhiều biện pháp tốt nhất để nâng tầng tiếp nhận cho các em học sinh - những con người rất tin cậy ở các thầy cô. II. những kiến nghị Với những ý kiến đã nêu trong sáng kiến kinh nghiệm, người viết xin được đề đạt một số ý kiến sau: - Mong muốn mỗi nhà trường tạo điều kiện cung cấp nguồn tài liệu cho giáo viên nhằm đáp ứng nhu cầu Dạy - Học cũng như nhu cầu Người viết: Lê Hòa Bình
  33. 33 Sáng kiến kinh nghiệm - Năm học 2009 - 2010 nghiên cứu đối với mỗi bài giảng cụ thể để việc Dạy - Học đạt kết quả cao. - Được đầu tư trang thiết bị Dạy - Học hiện đại như: (đèn chiếu, đồ dùng dạy học cụ thể cho mỗi bài giảng) để góp phần cải tiến phương pháp theo hướng tích hợp phù hợp với chương trình và SGK mới. Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2010 người viết Lê Hòa Bình Người viết: Lê Hòa Bình