Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn viết chữ đẹp cho học sinh lớp 1

pdf 21 trang thienle22 7981
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn viết chữ đẹp cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_viet_chu_dep_cho_hoc_sin.pdf

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn viết chữ đẹp cho học sinh lớp 1

  1. DÀN Ý TÓM TẮT PHẦN A- MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài II. 1. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu 2. Phương pháp nghiên cứu 3. Thời gian thực hiện PHẦN B – NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1. Thực trạng chung 2. Chất lượng chữ viết của lớp 1A III. Các biện pháp đã thực hiện 1. Coi trọng chữ viết và việc viết mẫu của giáo viên 2. Kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc rèn chữ 3. Rèn học sinh cách cầm bút và tư thế ngồi viết cho học sinh 4. Rèn học sinh viết đúng mẫu chữ vở tập viết 4.1 Phân tích kĩ cấu tạo chữ 4.2 Dạy học sinh cách đồ chữ 4.3 Dạy học sinh viết chuẩn các nét cơ bản 4.4 Hướng dẫn học sinh viết đúng các nét nối của chữ, khoảng cách của chữ 4.5 Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ tập viết 5. Rèn học sinh viết cỡ chữ nhỏ trong giờ chính tả 5.1 Chuẩn bị cho học sinh luyện viết bằng bút mực 5.2 Chuẩn bị cho học sinh luyện viết chính tả ( viết cỡ chữ 1 li) 5.3 Rèn chữ viết học sinh trong phân môn chính tả 6. Tổ chức trò chơi trong giờ tập viết 7. Thường xuyên động viên khích lệ học sinh 8. Tổ chức cho thi viết chữ đẹp kết hợp rèn chữ trong các môn học khác IV. Kết quả PHẦN C- KẾT LUẬN I. Bài học kinh nghiệm II. Khuyến nghị 1
  2. PHẦN A- MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bậc tiểu học là bậc học nền tảng để tiến lên cấp học cao hơn, là bậc học phổ cập bắt buộc đối với mỗi trẻ em và là bậc học mang đậm tính sư phạm. ở tiếu học thì lớp 1- lớp đầu cấp- lớp học tiền đề để học sinh học tiếp lên các lớp trên. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biết ở tiểu học, nhất là với lớp 1. Tập viết giúp các em có thể sử dụng bộ chữ cái trong học tập và giao tiếp. Tập viết có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của học sinh. Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài tốt hơn, nhờ đó mà kết quả học tập của học sinh cao hơn. Ngoài ra, tập viết còn góp phần vào việc rèn cho học sinh tính cẩn thận, tính k? luật và óc thẩm mĩ. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình” Dạy tập viết ở lớp 1 là dạy học sinh viết những nét chữ đầu tiên – nét viết ấy có thể ảnh hưởng đến suốt quá trình học tập của các em sau này. Chính vì vậy việc dạy tập viết vô cùng quan trọng, đòi hỏi người giáo viên phải cẩn thận, tỉ mỉ trong từng giờ dạy, từng bước lên lớp. Nhận thức được vấn đề này, trong năm học 2012- 2013 khi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 1A, tôi luôn suy nghĩ và bằng việc nghiên cứu tài liệu, tìm đọc sách báo, học hỏi đồng nghiệp; bằng những kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy của bản thân, tôi mạnh dạn đề ra một số phương pháp nhằm giúp các em học sinh lớp 1 trong phân môn tập viết, với đề tài: “ Biện pháp rèn viết chữ đẹp cho học sinh lớp 1”. Trong năm học 2012-2013 tôi đã áp dụng tại lớp 1A, trường Tiểu học Nam Hồng và bước đầu thấy có hiệu quả. II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phạm vi - Đối tượng nghiên cứu : Đi sâu nghiên cứu “ Rèn kĩ năng viết đúng, viết đẹp cho học sinh lớp 1”. 42 học sinh lớp 1A - Trường Tiểu học Nam Hồng 2
  3. 2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu tìm đọc các tài liệu, báo chí chuyên ngành, nghiên cứu chương trình Tiếng Việt lớp 1 Phương pháp điều tra thực tiễn. Phương pháp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm. 3. Thời gian nghiên cứu: Năm học 2012-2013 và đúc rút kinh nghiệm của nhiều năm học trước. 3
  4. PHẦN B- NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Chữ viết là hệ thống của ngôn ngữ bằng đồ hình, có chức năng cố định hoá ngôn ngữ âm thanh thay cho lời nói. Chữ viết “đúng” và “ đẹp” góp phần thể hiện đặc điểm, tính chất, ngôn ngữ tiếng nói riêng của dân tộc, đồng thời góp phần gìn giữ, bảo vệ trong sáng tiếng mẹ đẻ. Không những thế, chữ viết “đúng”, “đẹp” còn góp phần nói chuẩn tiếng Việt Nam và hoàn thiện nhân cách người Việt. Có thể nói, dạy học sinh viết đúng, đẹp vừa là mục đích vừa là phương tiện của quả trình giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Rèn học sinh viết “đúng”, viết “đẹp” là thực hiện tốt việc rèn một trong 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc , viết của chương trình tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh ngày càng được chú trọng và nâng cao. II.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1.Thực trạng chung Hiện nay trong nhà trường, một số ít giáo viên chưa thực sự chú trong đến việc rèn chữ viết cho học sinh. Chữ viết của nhiều giáo viên vẫn chưa chuẩn mực. Học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì khó thực hiện được những động tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận vì vậy khi tiếp thu kĩ thuật viết chữ học sinh không tránh khỏi lúng túng, khó khăn. Tư thế ngồi viết, cách cầm bút của học sinh chưa đúng kĩ thuật, do vậy đẫn đến tình trạng cận thị học đường ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó còn một số học sinh đồ dùng chưa được chuẩn. Học sinh chưa hứng thú nhiều trong giờ luyện viết, còn nhiều học sinh viết nhanh, viết ẩu và sai mẫu chữ. 2. Chất lượng chữ viết của lớp 1A Ngay từ những tuần đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát phân loại học sinh qua những giờ tập tô chữ. Tôi đã thu được kết quả như sau: 4
  5. Số Phân loại Tỷ lệ lượng HS ngồi viết đúng tư thế, cầm bút đúng 6 14,2 HS ngồi đúng tư thế 6 14,2 HS ngồi cúi sát vở, chưa biết cách cầm bút 15 35,8 HS chưa biết cách đặt bút, đưa bút, rê bút, 15 35,8 nét tô sai mẫu Qua thực trạng chung và thực trạng của lớp, tôi thiết nghĩ: Nếu không có biện pháp tích cực rèn,uốn nắn mà để tình trạng này kéo dài thì đa số các em học sinh lớp 1 sẽ bị tật viết sai, rất khó sửa về sau. Bằng những biện pháp cụ thể của mình, tôi đã đặt ra kế hoạch rèn chữ viết cho các em với hi vọng trong thời gian một năm có thể rèn cho các em về tư thế ngồi viết đúng, biết viết chữ đúng mẫu và chữ viết đẹp.Tôi đã đề ra một số biện pháp cụ thể sau: III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1.Coi trọng chữ viết và việc viết mẫu của giáo viên Trong thực tế, chữ viết của thầy cô ảnh hưởng rất lớn đến chữ của học trò, ta thấy điều đó rất rõ qua việc: Nếu một giáo viên viết sai mẫu chữ một con chữ nào đó, thì chắc chắn có nhiều học sinh viết sai theo giáo viên. Chính vì vậy mà chữ viết của giáo viên “đúng” và “đẹp” thì chữ của học sinh mới có thể đúng và đẹp được. Do vậy mỗi người giáo viên trước hết cần phải luôn có ý thức tự mình tu dưỡng và luyện chữ viết của mình để có thể làm mẫu cho học sinh. 1.1.Giáo viên tích cực rèn chữ của mình Thấy được tầm quan trọng về chữ viết của người giáo viên, tôi đã tự mình rèn chữ bằng các biện pháp: - Luyện viết vở tập viết của học sinh lớp mình dạy (vở tập viết lớp 1, Vở luyện chữ của giáo viên). - Luyện viết các bài chính tả của học sinh trong chương trình sgk của học sinh. - Thường xuyên luyện viết trên bảng lớp. - Học hỏi đồng nghiệp: Quan sát chữ viết, cách viết của các đồng chí giáo viên viết đẹp. - Khi đặt bút vào bất cứ trang giấy nào cũng luôn xác định mình cần phải nắn nót viết chữ cho đều, đẹp (không tự cho mình viết nhanh, viết ẩu). 5
  6. Với ý thức rèn chữ như vậy mà từ chỗ là một giáo viên viết chữ chưa đẹp đến nay tôi đã có chữ viết chuẩn mực để học sinh học tập và noi theo. 1.2 Coi trọng việc viết mẫu của giáo viên Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên, giúp cho học sinh nắm bắt được qui trình viết từng nét, từng chữ. Do vậy khi viết mẫu , giáo viên phải viết chậm, cẩn thận, đúng theo qui tắc viết chữ. *Viết mẫu trên bảng lớp: - Viết bảng lớp là thao tác mẫu để học sinh cả lớp được quan sát, vì vậy khi viết, giáo viên phải chọn vị trí đứng để tất cả học sinh nhìn thấy tay cô viết từng nét. - Phân tích giảng giải cách viết; Có thể kết hợp viết mẫu ( hoặc đồ lại chữ mẫu) với việc giảng giải cách viết thật kĩ càng để học sinh nắm được qui trình viết.phân tích cách viết. VD: Khi viết chữ “ b” giáo viên có thể phân tích cách viết: chữ “ b” gồm 2 nét : nét khuyết trên và nét thắt. Đặt bút từ phía trên đường kẻ ngang thứ nhất viết nét khuyết trên kéo xuống gần đường kẻ ngang thứ nhất lượn cong kéo lên 2 li làm nét thắt. Nhờ việc phân tích kĩ mẫu chữ, quan sát kĩ mẫu chữ của giáo viên mà học sinh có thể nắm rõ mẫu chữ và viết đúng mẫu. *Viết mẫu ở vở : Nếu viết mẫu ở bảng giúp học sinh nắm chắc được kĩ thuật viết chữ thì viết mẫu ở vở giúp học sinh nhớ lại kĩ thuật viết và cách trình bày vở. Trong giờ Tập viết hoặc chính tả, giáo viên cho học sinh quan sát vở mẫu để nắm rõ hơn về: + Chữ mẫu được viết ở vở. + Khoảng cách của các chữ viết. + Cách trình bày vở. Giáo viên có thể cho học sinh quan sát vở mẫu bằng cách: + Đặt vở mẫu dưới máy chiếu đa năng cho học sinh quan sát. + Học sinh quan sát vở mẫu theo nhóm. Mặt khác với học sinh yếu, viết xấu tôi viết mẫu trực tiếp lên vở của học sinh để học sinh nắm lại cách viết, có thể viết đẹp hơn. Đặc biệt ở giai đoạn đầu năm khi mới nhận lớp, tôi thấy một số em chưa biết điểm đặt bút, dừng bút ở đâu. Tôi đã thu vở của các em và viết mẫu, sau đó mỗi dòng tôi chấm 1 số điểm đặt bút viết. Nhờ vậy mà các em viết đúng hơn. Ví dụ: Lớp tôi có em Quỳnh Anh, thời gian đầu năm học khi học viết chữ g. Em viết rất lúng túng dừng bút không đúng dòng kẻ. Sau khi 6
  7. được tôi viết mẫu và hướng dẫn cách viết sao cho nét khuyết dưới của con chữ g nằm dưới 3 ô li của đường kẻ đậm, em đã viết đúng dòng và viết khá đẹp. Chữ viết mẫu của giáo viên phải luôn mẫu mực, mỗi chữ của giáo viên viết trên bảng thì tất cả học sinh đều được quan sát. Vì vậy không chỉ khi chủ định viết mẫu giáo viên mới viết đúng, đẹp mà khi viết bất cứ chữ nào trên bảng người giáo viên cần viết chữ chuẩn mẫu để học sinh noi theo. Hơn nữa, ngay cả lời phê của giáo viên ở vở của học sinh , ở sổ liên lạc cũng cần viết chuẩn mực, đúng mẫu để không những làm mẫu cho học sinh mà còn gây được lòng tin của cha mẹ học sinh. 2. Kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc rèn chữ 2.1 Họp cha mẹ học sinh và thống nhất về đồ dùng học tập của học sinh Đồ dùng học tập của học sinh( bút vở bảng phấn) ảnh hưởng nhiều đến chất lượng chữ viết của học sinh. Đối với học sinh lớp 1, đa số bố mẹ học sinh còn trẻ, nhiều em là con đầu nên việc mua sắm đồ dùng học tập của cha mẹ có nhiều bỡ ngỡ. Vì vậy ngay từ đầu năm, khi tiếp nhận học sinh, tôi đã thống nhất với cha mẹ các em về đồ dùng học tập của học sinh trong môn tập viết. Cụ thể là: + Bảng con: Dùng loại dễ viết không trơn, có kẻ li như ở vở ô li( VD: Bảng MIC). + Phấn, hộp dựng phấn giẻ lau. Giáo viên cần hướng dẫn cha mẹ học sinh mua loại phấn mềm, dễ viết vào bảng(VD: phấn Việt Hàn, phấn MIC). Học sinh cần có hộp đựng phấn, giẻ lau ẩm. + Bút chì: Nên dùng loại chì 2B vừa mềm vừa dễ viết. Mặt khác, học sinh rất hay tì tay bút dẫn đến bút dễ gãy, nếu gọt bút trong giờ học sẽ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng giờ học. Do vậy giáo viên nên qui dịnh trong hộp bút của mỗi học sinh cần luôn có 2 bút chì gọt sẵn để các em tiện dùng khi bút gãy hỏng. + Bút mực: Hiện nay có rất nhiều loại bút mực dành cho học sinh, song giáo viên cần lựa chọn loại bút nhẹ, viết dễ ra mực cho phù hợp với học sinh lớp 1. +Vở viết : ngoài vở tập viết ra, học sinh cần dùng vở ô li,giáo viên cần chọn cho học sinh loại vở 4 li, chất lượng tốt, không nhoè mực. 2.2. Kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc rèn chữ cho học sinh Việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong rèn luyện học tập của học sinh là rất cần thiết. Tôi thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh về những điểm mạnh của học sinh để cha mẹ động viên khích lệ các 7
  8. em, những mặt hạn chế của học sinh để cha mẹ cùng với cô giáo giúp đỡ các em khắc phục . Tôi thường thông tin hai chiều với cha mẹ học sinh qua sổ liên lạc, điện thoại hoặc gặp trực tiếp để trao đổi về : + Tư thế ngồi viết, cách cầm bút của học sinh. + Ý thức học tập của học sinh nói chung và môn tập viết nói riêng. + Chất lượng chữ viết của học sinh, những tiến bộ của các em về chữ viết cũng như những hạn chế mà mắc phải. Qua đó để gia đình có hướng kèm cặp các em, giúp đỡ các em khắc phục những động tác, tư thế, chữ viết sai, có như vậy các em sẽ nhanh tiến bộ hơn. Ví dụ. Em Nguyễn Anh Tuấn lớp tôi ngay từ đầu năm học đã có tật ngồi gù, cúi sát mặt xuống vở. Tôi đã gặp gỡ với mẹ em Tuấn trao đổi và thống nhất cách rèn tư thế ngồi viết cho em như sau: -Bước 1: Sử dụng giá đỡ chống cận để em Tuấn biết cách ngồi đúng tư thế. - Bước 2: Bỏ giá đỡ chống cận, tập trung vào việc rèn tư thế viết đúng cho con. - Bước 3: kiểm tra tư thế ngồi viết cho con trước khi vào viết bài. Mặc dù lúc đầu gặp mẹ em Tuấn, mẹ em nhất định nói rằng em Tuấn ngồi gù từ nhỏ gia đình không thể sửa được song với sự kết hợp của nhà trường và gia đình mà giờ đây em đã có tư thế ngồi viết rất tốt. Điều đặc biệt là chữ viết của em luôn đẹp và sạch sẽ. 3. Rèn học sinh cách cầm bút và tư thế ngồi viết cho học sinh Đối với học sinh lớp 1- lớp đầu cấp thì việc rèn cho học sinh biết cách cầm bút và tư thế ngồi viết đúng vô cùng quan trọng, tạo cho học sinh một thói quen tốt ngay từ đầu. Nếu giáo viên chưa quan tâm đến việc tạo cho học sinh tư thế ngồi viết hợp lí thì đó là khuyết điểm lớn. Tư thế ngồi viết không những ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả học tập mà còn ảnh hưởng trực tiếp dến sự phát triển thể lực của học sinh. Tư thế viết không hợp lí làm các em chóng mệt mỏi, tạo ra các căn bệnh như cận thị, cong vẹo cột sống. Bởi vậy, ngay từ lớp 1, giáo viên cần chú trọng đến việc rèn cho học sinh cách cầm bút, tư thế ngồi viết đúng. 3.1 Rèn học sinh ngồi viết đúng tư thế Ngay từ tiết tập viết đầu tiên của năm học, giáo viên cần giảng giải, làm mẫu xem thế nào là ngồi viết đúng tư thế, ngồi viết đúng tư thế có lợi gì và ngồi viết sai tư thế có hại như thế nào? Để giúp cho học sinh ghi nhớ sâu sắc những điều đó ,vào tuần đầu của năm học, tôi phát cho mỗi em một tờ giấy 8
  9. “ Dặn em” về tư thế ngồi viết, yêu cầu các em treo ở góc học tập của mình và tôi cũng treo một tờ to ở góc lớp. Dặn em - Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi Ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào cạnh bàn.Đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở từ 25 cm- 30 cm, cánh tay trái đặt trên mặt bàn, bên trái vở; bàn tay trái để vào mép vở, giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cùng ở trên mặt bàn. Một thực tế cho thấy, học sinh lớp 1 tay còn non, chữa đủ lực để tì bút viết, do vậy các em rất hay cúi sát vở(vì các em thấy cúi như vậy sẽ dễ viết hơn). Do vậy, về mặt lí thuyết giúp các em nắm được tư thế ngồi viết thì dễ nhưng để có thói quen ngồi viết đúng quả là không dễ chút nào. Giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn học sinh bằng cách: - Nhắc nhở, kiểm tra tư thế ngồi viết của học sinh trước mỗi giờ viết. - Thường xuyên uốn nắn các em khi viết bài. - Khen ngợi học sinh ngồi viết đúng tư thế. VD: Trong giờ tập viết, tôi nhận thấy có một số học sinh lớp tôi ngồi viết chưa đúng tư thế. Tôi thay lời nhắc nhở bằng lời khen với học sinh ngồi đúng: “ Cô thấy bạn Lan Nhi lớp mình đang ngồi viết rất đúng tư thế nên chữ viết của bạn rất đẹp đấy!”. Lập tức học sinh lớp tôi đồng loạt ngồi lại cho đúng tư thế ( vì các em thích mình cũng được khen giống như bạn). Lúc đó tôi mới khen thêm một số học sinh khác đã ngồi viết đúng tư thế. Thường xuyên được nhắc nhở, thường xuyên rèn luyện sẽ tạo được thói quen tốt cho học sinh - thói quen ngồi viết đúng tư thế. 3.2 Rèn học sinh cầm bút đúng cách Theo chương trình đổi mới, các em được cầm bút để tô chữ ngay từ lớp mẫu giáo, hơn nữa một số cha mẹ học sinh đã kèm cặp các em tập viết trước khi vào lớp 1. Do vậy mà tình trạng học sinh cầm bút chưa đúng khá phổ biến. Cùng với việc rèn tư thế ngồi viết, giáo viên cần rèn cho học sinh cách cầm bút đúng . 9
  10. Việc đầu tiên giáo viên cần giảng giải, làm mẫu về cách cầm bút: Yêu cầu học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng 3 ngón tay( ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của bút dựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Để rèn cho học sinh cách cầm bút đúng giáo viên cần: - Thường xuyên làm mẫu cho học sinh. - Kiểm tra uốn nắn trước mỗi giờ viết. - Chỉnh sửa kịp thời, thường xuyên kiên trì đối với những học sinh cầm bút sai trong các trường hợp: Cầm bút quá đứng, quá nghiêng, cầm bút bằng cả 3 đầu ngón tay. Ví dụ : Em Tuấn lớp tôi rất hay cầm bút chụm cả 3 ngón tay, tôi thường xuyên để ý nhắc nhở cầm tay đặt lại cách cầm bút cho đúng. Sau nhiều lần như vậy mỗi khi em cầm chưa đúng tôi chỉ làm động tác là em đã hiểu ra và tự chỉnh lại. Uốn nắn học sinh thường xuyên, các em sẽ có cách cầm bút đúng, giúp các em có thể dễ dàng viết đúng, viết đẹp ở lớp 1 và viết nhanh ở các lớp trên. 4. Rèn học sinh viết đúng mẫu chữ vở tập viết Dạy tập viết ở lớp 1 được chia thành 2 giai đoạn: + Giai đoạn 1: Việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học vần: học sinh luyện viết chữ trong các tiết học âm, chữ ghi âm, vần và tập viết theo các yêu cầu kĩ thuật trong giờ tập viết. + Giai đoạn 2: Học sinh tập tô chữ hoa, ôn lại chữ ghi vần, ghi từ ngữ (cỡ chữ to và cỡ chữ nhỏ) Dạy tập viết ở giai đoạn này học sinh cần nắm bắt được các kiến thức cơ bản về cấu tạo của chữ, thao tác viết chữ cái tạo thành các chữ ghi tiếng. Để làm tốt được việc dạy tập viết cho học sinh trong giai đoạn này giáo viên cần: 4.1 Phân tích kĩ cấu tạo chữ Việc phân tích kĩ cấu tạo của chữ giúp học sinh nhớ được hình dáng, các nét viết giúp học sinh nhớ để dễ dàng viết được chữ đó. Giáo viên có thể giúp học sinh nhận biết rõ cấu tạo của chữ qua hệ thống câu hỏi để xác định rõ cho học sinh: - Độ cao, độ rộng của chữ. - Điểm đặt bút, điểm dừng bút của chữ. VD: Khi dạy viết chữ h. 10
  11. Giáo viên hỏi: Chữ h cao mấy li? Được viết bằng mấy nét? Là những nét nào? Điểm đặt bút, điểm dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẻ? Với hệ thống câu hỏi trên, học sinh nắm chắc về hình dạng, kích thước, cấu tạo chữ cần viết, từ đó dễ dàng viết đúng chữ mẫu . 4.2 Dạy học sinh cách đồ chữ Vấn đề dạy hoc sinh đồ chữ đã được giáo viên bàn luận và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Nên hay không nên dạy học sinh thao tác “đồ chữ trên không”. Theo ý kiến của riêng tôi thì ở các giờ tập viết trong tuần đầu ở lớp 1, việc làm này rất cần thiết. Bởi lẽ, việc đồ chữ trên không như một bài tập thể dục cho tay, thao tác này giúp cơ tay của các em mềm dẻo hơn, dễ điều chỉnh cổ tay hơn. Từ đó giúp các em dễ viết chữ trên giấy hơn. Trong mỗi giờ viết (đặc biệt phần tập viết chữ ghi âm) sau khi phân tích cấu tạo chữ, quan sát giáo viên viết mẫu, trước khi vào viết bảng con, giáo viên nên cho học sinh đồ chữ trên không trung, giúp các em định hình được cách viết, cách đưa tay, giúp các em dễ dàng uốn chữ hơn khi viết vào vở. VD: Khi dạy bài âm “ h”: Sau khi giáo viên viết mẫu và hướng dẫn học sinh cách viết, giáo viên yêu cầu học sinh đồ chữ trên không trung trước khi viết vào bảng con. Giáo viên và học sinh cùng đồ chữ, giáo viên kết hợp nói: Các con đưa nét xiên vòng vào làm nét khuyết- sổ thẳng- lia bút lên viết nét móc 2 đầu. Thường xuyên được đồ chữ tay các em sẽ dẻo hơn, các em viết chữ vào bảng, vào vở sẽ dễ dàng hơn. 4.3 Dạy học sinh viết chuẩn các nét cơ bản Nhìn vào một văn bản viêt, để đánh giá chữ viết xấu hay đẹp ta cần đi sâu phân tích xem: Chữ viết có đúng mẫu, đều nét không? Viết các nét nối, các khoảng cách chữ đã hợp lí chưa? Mà muốn xem chữ viết có đúng mẫu không ta lại phải xem các nét cơ bản của từng chữ cái đã chuẩn xác chưa. Chính vì vậy mà việc dạy học sinh viết chuẩn các nét cơ bản ở lớp 1 là rất quan trọng, tạo cơ sở nền móng giúp các em viết chữ đúng mẫu, chữ đẹp. Muốn học sinh viết chuẩn các nét cơ bản giáo viên cần: + Dạy học sinh ghi nhớ tên gọi các nét cơ bản ( nét sổ thẳng, nét xiên phải, xiên trái, nét khuyết trên .) + Tập viết các nét cơ bản: Trong chương trình tập viết lớp 1, dạy học sinh tập viết các nét cơ bản chỉ được tiến hành trong 2 tiết, Thời lượng để các em làm quen và tập viết các nét cơ bản là quá ít. Do vậy để học sinh được luyện viết các nét cơ bản nhiều hơn giáo viên có thể cho học sinh luyện viết nét cơ bản vào bảng con, vào vở ô li trong các giờ tự học. 11
  12. + Chính sửa đúng các nét cơ bản khi học sinh viết chữ ghi âm. Mặc dù học sinh viết từng nét cơ bản đơn lẻ đúng và đẹp song khi viết một chữ ghi âm( có nét cơ bản) thì các em lại viết sai mẫu. Vì vậy khi dạy học sinh viết chữ ghi âm giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh xem các em đã viết đúng mẫu chưa, nếu sai thì sai ở nét cơ bản nào để các em chỉnh sửa kịp thời không để tạo thành nếp sai lâu ngày khó sửa chữa. VD: Khi viết nét khuyết trên ( ), nét móc 2 đầu ( ) các em viết khá đẹp, song khi viết chữ “ h” thì các em lại viết nét khuyết trên không chuẩn. Với những trường hợp như thế tôi cho học sinh luyện viết lại nét khuyết trên, nét móc hai đầu thật chuẩn và đẹp rồi mới cho học sinh luyện viết chữ “h”. Như thế học sinh sẽ viết chuẩn hơn. 4.4 Hướng dẫn học sinh viết đúng các nét nối của chữ, khoảng cách của chữ Đối với việc hướng dẫn học sinh viết các chữ ghi tiếng, ghi từ hay câu, giáo viên cần khắc sâu cho các em kĩ thuật nối chữ, rê bút và khoảng cách giữa các chữ cái trong một chữ, giữa các chữ trong một từ, giữa các từ với nhau bằng cách viết mẫu trên bảng lớp , kết hợp lời nói minh hoạ. + Trường hợp viết nét nối thuận tiện như nét nối của các chữ : ch, nh, an Khi viết các nét nối của các chữ dạng này học sinh lớp 1 rất hay viết roãng thưa quá. VD: Viết chữ “ ch”. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh từ cuối nét viết chữ c rê bút lên, viết ngay nét xiên của chữ h – lưu ý các em khi viết nét xiên không nên viết xiên quá sẽ không đảm bảo được đúng nét nối giữa chữ c - h. + Trường hợp nét nối không thuận tiện: VD: Viết chữ “ sạch” Giáo viên viết mẫu- hướng dẫn học sinh nhìn mẫu, cách khoảng cách từ chữ s đến chữ a một chút ( như mẫu). Tạo cho các em thói quen ước lượng khoảng cách để viết cho chuẩn. + Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng, ghi từ. Về lí thuyết giáo viên thường dạy cho học sinh khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng là 1 con chữ o, giữa các chữ ghi từ là 2 con chữ o. Nhưng thực tế với học sinh lớp 1, để các em tưởng tượng ra khoảng cách đó là rất khó. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách khoảng cách 1 con chữ o tương đương với 1,5 li (cỡ chữ to), gần một li (cỡ chữ nhỏ); 2 con chữ o tương đương với 3li (với cỡ chữ to) để các em dễ ước lượng và viêt được khoảng cách chữ đều, đẹp. 12
  13. 4.5.Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ tập viết Giáo viên có thể khắc sâu biểu tượng về chữ viết cho học sinh bằng cách phối hợp nhiều đồ dùng trực quan ở tất cả các bài tập viết. Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng chữ mẫu trong các giờ tập viết. - Chữ mẫu in sẵn (để học sinh phân tích cấu tạo chữ). - Chữ mẫu của giáo viên (giáo viên viết mẫu để học sinh nắm được cấu tạo và kĩ thuật viết chữ). - Chữ của các bạn viết đẹp (có thể đưa ra một số chữ của các bạn viết chưa đúng mẫu để học sinh so sánh). VD : Khi dạy bài chữ “h” Tôi đưa mẫu chữ “h” được in sẵn giúp học sinh phân tích cấu tạo của chữ, viết mẫu chữ h trên bảng, khi học sinh viết bảng con tôi lấy luôn chữ viết ở bảng con của em viết đẹp làm trực quan cho cả lớp. Đồng thời lấy bảng chữa đúng mẫu (phổ biến) để học sinh so sánh đối chiếu mẫu và tự sửa chữa. Việc rèn kĩ năng viết đúng mẫu chữ cho học sinh lớp 1 là một quá trình, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, thật sự yêu nghề, quan tâm đến học sinh. Có viết đúng mẫu thì các em viết đẹp, viết nhanh, các em mới có được kết quả học tập tốt. 5. Rèn học sinh viết cỡ chữ nhỏ trong giờ chính tả Đây là một giai đoạn chuyển biến mới đối với học sinh lớp 1. Làm thế nào để các em không bỡ ngỡ khi chuyển từ việc viết bằng bút chì sang viết bằng bút mực; chuyển từ cỡ chữ 2 li sang cỡ chữ 1 li. Ở giai đoạn này, đòi hỏi người giáo viên phải cẩn thận, bình tĩnh không nôn nóng và đặc biệt phải có kế hoạch với từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần: 5.1 Chuẩn bị cho học sinh viết bằng bút mực Đến cuối học kì I, giáo viên có thể cho học sinh lớp mình tập sử dụng bút mực. Để chuẩn bị cho việc viết bút mực, tôi đã tiến hành: + Qui định loại bút (đã thống nhất từ đầu năm) cho học sinh. + Qui định loại vở tập viết bằng bút mực (vở có 4 li chất lượng cao để tránh nhoè). + Chọn đối tượng học sinh được tập viết bằng bút mực: Việc viết bằng bút mực không được tiến hành đồng loạt trong cả lớp mà tôi chỉ chọn những học sinh đã viết tương đối đẹp và đúng mẫu được chuyển sang tập viết bằng bút mực. VD: Đợt 1 : Chọn 1/3 số học sinh cả lớp. Đợt 2: Chọn 1/2 số học sinh còn lại. Đợt 3: Cả lớp tiến hành viết bằng bút mực. 13
  14. Làm như vậy các em sẽ không bỡ ngỡ khi viết bằng bút mực, đồng thời các em viết xấu sẽ tự mình quyết tâm hơn để bằng bạn (được viết bằng bút mực). + Hướng dẫn học sinh cách cầm bút và viết bằng bút mực. Từ bút chì chuyển sang bút mực các em sẽ rất khó viết, vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh tỉ mỉ. Cách cầm bút mực cũng như cầm bút chì song yêu cầu học sinh phải cầm úp ngòi bút để mực ra dều, nét chữ viết đều và dễ viết. Đối với các em thật sự lúng túng khi viết bút mực tôi có thể cho các em tô lại chữ (ở vở tập tô hoặc luyện lại bằng bút chì) như vậy các em sẽ dễ quen hơn với việc viết bằng bút mực. 5.2 Chuẩn bị cho học sinh viết chính tả (viết cỡ chữ 1 li) Nếu để đến khi chuyển hẳn sang phần viết chính tả giáo viên mới cho học sinh tập viết cỡ chữ nhỏ thì quả là khó cho học sinh. Chính vì vậy mà trước khi chuyển hẳn sang phần viết chính tả 4 tuần giáo viên nên tiến hành cho học sinh tập viết cỡ chữ nhỏ trong các giờ hướng dẫn học. Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện viết theo các nhóm chữ: + Nhóm chữ có độ cao 1 đơn vị (1 ô li):a,ă, â, u, ư, n, m, i, e, ê, o, ô, ơ, v, c, x. + Nhóm chữ có độ cao 1,25 đơn vị (hơn 1 li):s, r + Nhóm chữ có độ cao 1,5 đơn vị (1ô li rưỡi): t + Nhóm chữ có độ cao 2 đơn vị (2 ô li ): d, đ, p, q và các chữ số. + Nhóm chữ có độ cao 2,5 đơn vị (2 ô li rưỡi): b, h, l, g, k Khi học sinh đã viết đúng, đẹp thành thạo các nhón chữ trên tôi cho học sinh luyện viết ứng dụng các chữ ghi vần, tiếng, từ câu của bài học vần. Nhờ việc rèn luyện như vậy mà sang phần chính tả học sinh lớp tôi không còn lúng túng hay bỡ ngỡ với việc viết chữ nhỏ, các em viết tương đối chuẩn về độ cao, độ rộng cũng như khoảng cách giữa các chữ. 5.3 Rèn chữ viết cho học sinh trong phân môn chính tả Nếu đã có bước chuẩn bị cho việc viết chính tả thì luyện viết chính tả của học sinh dễ dàng và thuận lợi hơn. Giáo viên cần tập trung nhiều vào cách trình bày vở cho một bài viết và củng cố cho học sinh viết đúng mẫu, đúng kích thước và luyện viết một bài viết đẹp. a. Cách trình bày vở: Đây là lần đầu tiên học sinh được trình bày một văn bản (một bài viết chính tả). Vì vậy cần hướng dẫn học sinh kĩ về cách viết: VD: + Dòng ghi thứ, ngày tháng : Được viết lùi vào 1 ô - chữ cái đầu dòng viết hoa. 14
  15. + Dòng ghi: “ Chính tả” viết vào giữa dòng (lùi khoảng 4, 5 ô). + Dòng ghi đầu bài: Tuỳ theo đầu bài dài hay ngắn để viết sao cho cân đối với giữa dòng. + Cách chép bài thơ (thể thơ 5 chữ, thể lục bát). + Cách chép bài văn xuôi. Giáo viên cần hướng dẫn với từng bài viết cụ thể, từ đó học sinh có kĩ năng trình bày một bài viết sạch, đẹp. b. Rèn học sinh viết đúng mẫu, viết đẹp Trong thời gian đầu của môn chính tả thì chữ mẫu của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể dành thời gian viết mẫu bài trên bảng để học sinh quan sát được chủ yếu về cách viết của giáo viên. Với phương châm “ Sai đâu sửa đấy” tôi thường xuyên uốn nắn sửa chữa chữ viết còn sai cho học sinh. Tôi phân ra các nhóm học sinh viết chữ chưa đúng mẫu như : - Nhóm viết chữ quá rộng. - Nhóm viết chữ quá gầy, nhỏ. - Nhóm viết chữ chưa đúng độ cao. - Nhóm viết chữ gẫy hoặc mất nét hất. - Nhóm viết chữ chưa đều: Chữ to, chữ nhỏ, chữ lên cao, chữ xuống thấp. Sau khi phát hiện ra lỗi sai như trên tôi thường sửa cho học sinh bằng cách: - Giúp học sinh tự nhận ra những nét chưa đúng mẫu trong bài. - Sửa chữa chung cho học sinh trên bảng lớp. - Uốn nắn cho cá nhân học sinh mắc lỗi sai khi các em viết bài. Ngoài ra, trước khi viết bài, tôi yêu cầu các em nhắc lại độ cao của một số con chữ hay sai như: nhóm con chữ cao 1,5 li (t), nhóm con chữ cao 2 li( d, đ, p ). Thường xuyên tiến hành như vậy cho đến nay các nhóm viết sai nét cơ bản ở lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt. c. Rèn học sinh viết đúng chính tả Phân môn chính tả ở lớp 1 yêu cầu chủ yếu là các em biết chép đúng, chép đẹp và bước đầu biết nghe đọc viết một khổ thơ hoặc đoạn văn của bài tập đọc. Giáo viên cần rèn các em làm sao biết cách nhìn chép, nghe viết đúng mẫu chữ, viết đẹp và viết đúng chính tả. Đó là một quá trình rèn luyện công phu, bền bỉ, đòi hỏi sự kiên trì của người giáo viên. - Khi nhìn bảng chép để học sinh viết đúng chính tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh tiến hành qua từng thao tác nhỏ: + Nhìn chữ phát âm chuẩn thành tiếng. 15
  16. + Nhớ và chép vào vở. VD: Học sinh viết chữ “bầu trời”, tôi yêu cầu các em phải đọc phát âm chuẩn tiếng “ trời” (uốn lưỡi) để các em viết đúng phân biệt với tiếng “ chời” . Thậm chí các em vừa viết vừa đánh vần chữ đó để viết cho đúng. - Khi nghe viết để giúp học sinh viết đúng chính tả thì việc phát âm của người thầy là vô cùng quan trọng. Người giáo viên phải phát âm chuẩn thì học sinh mới nghe được đúng. Mặt khác rèn học sinh có “đôi tai thính” biết phân biệt các âm như ; l - n, tr - ch, s - x. VD : Khi tôi đọc dằn lưỡi xuống thì học sinh viết âm “n”. Khi tôi đọc uốn lưỡi lên thì học sinh viết âm “ l”. Hay khi tôi đọc luồng hơi bậ t ra mạnh thì học sinh viết “s”, luồng hơi phát ra nhẹ thì học sinh viết âm “x”. 6. Tổ chức trò chơi trong giờ tập viết Để giảm bớt sự căng thẳng, gò bó vào khuôn mẫu - đặc trưng của giờ tập viết - tôi lồng trò chơi vào giờ học để gây hứng thú học tập cho học sinh. 6.1. Trò chơi: Thi tìm chữ viết đúng Sau khi học sinh học xong bài tập viết, tôi chuẩn bị sẵn một số bảng ghi các trường hợp chữ sai mà học sinh lớp tôi hay mắc phải và một số chữ viết đúng mẫu chia cho các nhóm chơi, yêu cầu học sinh các nhóm thảo luận tìm và khoanh tròn vào chữ viết đúng. VD : Sau khi học bài chữ “h” tôi cho cả lớp chia thành tám nhóm, mỗi nhóm có một bảng chữ có viết bảy chữ “h” gồm: + Chữ “h” nghiêng phải + Chữ “h” nghiêng trái + Chữ “ h” rộng quá + Chữ “h” hẹp quá + Chữ “h” viết sai điểm đặt bút. + Chữ “h” viết sai điểm dừng bút. + Chữ “h” viết đúng. Yêu cầu các nhóm thảo luận và khoanh tròn vào chữ viết đúng mẫu. Nhóm nào làm đúng và nhanh, nhóm đó sẽ thắng cuộc. Để học sinh hiểu sâu sắc hơn, tôi có thể chỉ vào các chữ viết sai hỏi: “ Tại sao các con không khoanh tròn vào các chữ này? chữ viết này sai ở chỗ nào?” Trò chơi giúp học sinh rất hào hứng, sôi nổi và hơn thế nữa học sinh một lần nào nữa được khắc sâu chữ viết đúng mẫu và tránh các trường hợp các chữ viết sai mẫu. 16
  17. 6.2. Trò chơi: Ai viết chữ đẹp nhất Giúp học sinh hào hứngviết đúng viết đẹp, cuối giờ học giáo viên có thể cho học sinh thi viết các chữ ghi âm, ghi tiếng, ghi từ đẫ viết trong bài. VD: Dạy bài tuần 20. Cuối giờ học tôi cho 4 học sinh đại diện của 4 tổ lên thi viết chữ “ hoà bình”. Sau hiệu lệnh của giáo viên, 4 em sẽ lên bảng thi viết, học sinh cả lớp cổ vũ cho bạn và đánh giá chữ viết của bạn. Giáo viên cho nhiều em được chơi luân phiên qua các giờ tập viết, các em rất hào hứng sôi nổi và em nào cũng cố gắng vươn lên để giành chiến thắng. 7.Thường xuyên động viên khích lệ học sinh Yếu tố cảm xúc tâm lí ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết, đặc biệt làchữ viết của học sinh lớp . Trẻ sẽ lĩnh hội chữ viết và dễ viết đẹp nếu trẻ được viết với tâm lí vui vẻ, phấn chấn. Chính vì vậy mà trong giờ luyện viết, giáo viên cần thường xuyên động viên, khích lệ học sinh, khen ngợi khi thấy học sinh có những tiến bộ nhỏ. Như vậy các em mới hào hứng học tập, tích cực luyện viết chữ đúng, chữ đẹp. Đúng như Schwab đã nói: “ Chỉ có khuyến khích động viên, khen ngợi mới làm phát sinh và gia tăng những tài năng mà thôi”. Do vậy, sau mỗi bài viết của các em, tôi thường kiểm tra có sự động viên khích lệ các em dù là những tiến bộ nhỏ. Ví dụ: “Hôm nay cô thấy bạn Khánh viết đã có tiến bộ”, hay “ So với bài viết trước, bài viết lần này Khánh Duy viết đẹp hơn và đúng chính tả hơn rồi đấy con cố gắng lên nhé”. Mặt khác giáo viên không nên trách mắng, sát phạt các em khi các em viết xấu, viết ẩu. Trái lại, giáo viên cần phân tích rõ chữ sai ở chỗ nào, vì sao chữ này xấu để các em sửa chữa. Chẳng hạn : “ nếu con viết chữ đẹp hơn một chút thì bài viết của con sẽ đẹp hơn nhiều” hoặc “ Con nhìn vở của con đã sạch chưa? lần sau con nhớ giữ gìn vở để vở sạch hơn nhé!. Giáo viên nhẹ nhàng, cởi mở, ân cần giúp giờ học diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái, học sinh tích cực học tập, giúp các em có ý chí rèn luyện chữ viết của mình ngày càng đẹp hơn. 8. Tổ chức thi viết chữ đẹp kết hợp rèn chữ trong các môn khác Hưởng ứng phong trào thi viết chữ đẹp của nhà trường, tôi thường tổ chức cho học sinh thi viết chữ đẹp vào tiết tự học cuối tuần (2 tuần 1 lần). Tôi cho học sinh thi viết bài tập hoặc chính tả. Các giải được xếp như sau: + Mỗi tổ chọn 4 giải (1 giải nhất, 1 giải nhì, 1 giải ba, 1 giải chữ viết có tiến bộ). 17
  18. + Từ các giải của tổ chọn 5 bài của cả lớp để được trưng bày vào tủ kính của lớp. Trong đó có 1 giải nhất, 1 giải nhì, 2 giải ba, 1giải bài viết có tiến bộ (được so sánh với bài của lần thi trước). Học sinh lớp tôi rất hào hứng dự thi vì các em có nhiều em được giải, thậm chí có em viết chưa đẹp cũng được giải (có giải chữ viết tiến bộ). Đặc biệt các em rất thích được trưng bày bài vào tủ kính của lớp nên các em luôn cố gắng rèn luyện chữ viết của mình. Song song với việc tổ chức thi viết chữ đẹp, phong trào “ Rèn chữ giữ vở” được phát động trong tất cả các giờ học. Đối với các môn học khác chữ viết được đánh giá sau kiến thức, kĩ năng của môn học đó, do vậy mà học sinh thường hay coi nhẹ, các em hay cẩu thả khi viết bài. Nhưng chữ viết ở môn học khác lại được đánh giá là sản phẩm cuối cùng về chữ viết của mỗi học sinh. Do vậy mà việc rèn chữ viết ở môn học khác là vô cùng quan trọng. Ở lớp 1, ngoài việc rèn chữ trong phân môn Chính tả, Tập viết thì môn Toán là môn học mà các em được viết số, viết chữ nhiều nhất. Do vậy mà khi dạy toán giáo viên cần chú trọng rèn học sinh viết chữ, viết số và cách trình bày bài vào vở. Trong các tiết học toán, để rèn chữ cho học sinh, giáo viên cần: - Lưu ý học sinh nhận xét về chữ viết khi nhận xét bài làm của bạn trên bảng. - Thường xuyên quan sát uốn nắn học sinh về chữ viết khi học sinh viết bài vào vở toán. - Khi chấm bài, nhận xét bài làm của học sinh, ngoài nhận xét về kiến thức và kĩ năng của môn toán giáo viên kèm theo cả nhận xét về chữ viết. VD: “ Con làm bài tốt, chữ viết đẹp” hoặc : “ Con làm bài tốt, chữ viết có tiến bộ” hay “ Con cần viết chữ nắn nót hơn”. Thường xuyên rèn giũa học sinh, các em sẽ có ý thức viết đẹp không chỉ khi các em viết chính tả, tập viết mà các có ý thức viết chữ đẹp ở thức viết chữ đẹp ở tất cả các môn học khác. Đó không chỉ là thành công lớn của người giáo viên mà nó cũng là mục đích để các em cần đạt được khi học tập viết. 18
  19. IV. KẾT QUẢ Với những biện pháp trên đây, cho đến nay chữ viết của học sinh lớp tôi đã dạy luôn viết đúng mẫu, viết đẹp. Nhiều học sinh viết đẹp đã tham gia kì thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp huyện và đạt kết quả cao. Cụ thể là: - Em Tô Lan Nhi đạt giải Nhất thi viết chữ đẹp cấp trường và giải 3 cấp huyện. - Em Dương Phương Anh đạt giải Nhì thi viết chữ đẹp cấp trường và giải KK cấp huyện. Chất lượng chữ viết của học sinh cả lớp có sự tiến bộ rõ rệt. Đến nay kết quả đã đạt như sau: Bảng kết quả xếp loại VSCĐ qua các kì kiểm tra: Sĩ số: 42 em. Xếp loại Loại A Loại B Loại C SL % SL % SL % Thời gian Giữa kì I 38 90,4 4 9,6 0 0 (Tháng 11) Cuối kì I 40 95,2 2 4,8 0 0 Giữa kì II 41 97,6 1 2,4 0 0 (Tháng 2) Đến nay 42 100 0 0 0 0 (Tháng 4) 19
  20. PHẦN C: KẾT LUẬN I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Rèn chữ viết cho học sinh là một việc làm vô cùng cần thiết. Việc rèn chữ không chỉ tiến hành ngày một ngày hai mà là cả quá trình thường xuyên, liên tục. Đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ của giáo viên và tinh thần tự giác học tập của học sinh. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã tự rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân. Muốn chất lượng chữ viết của học sinh cao, người giáo viên cần : - Có tâm huyết với nghề nghiệp, luôn tu dưỡng rèn luyện nâng cao chữ viết của bản thân. - Có sự chuẩn bị tốt để rèn chữ cho học sinh (chữ mẫu, đồ dùng) - Kiên trì, bền bỉ, ân cần với học sinh. - Tạo được hứng thú học tập cho học sinh. - Luôn học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, nâng cao kiến thức tập viết cũng như nhiều lĩnh vực khác. - Kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa gia đình và nhà trường. Có thể nói, chữ viết ngày càng được coi trọng và nâng cao. Chữ viết đẹp thể hiện một phần tính nết của học sinh. Việc rèn tư thế viết, cách cầm bút và những nét chữ đầu tiên cho học sinh lớp 1 vô cùng quan trọng. Bởi nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình học tập của các em sau này. Rèn học sinh lớp 1 có tư thế ngồi viết đúng, viết đúng mẫu chữ, viết đẹp tạo điều kiện thuận lợi các em ghi bài vở tốt, từ đó các em có được kết quả học tập tốt ở các lớp trên. II. KHUYẾN NGHỊ - Xin đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo phát hành vở tập viết cỡ chữ 1 li để chuẩn bị cho học sinh học chính tả được thuận lợi hơn. - Xin đề nghị cấp trên tổ chức chuyên đề về dạy tập viết sao cho có hiệu quả. Nhất là trong tình hình hiện nay một giờ tập viết (kì II) thực sự quá tải với học sinh lớp 1. Nam Hồng, ngày 15 tháng 4 năm 2013 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Thị Yên 20
  21. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn dạy tập viết ở tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục 2005) 2. Tâm lý học (Nhà xuất bản Giáo dục1991) 3. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng daỵ tiếng việt ở tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục 2005) 4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Lê A - Thành Thị Yên Mỹ - Lê Phương Nga - Nguyễn Trí 5. Dạy tập viết ở trường Tiểu học (Theo chương trình tiểu học mới) Lê A - Trịnh Minh Đức 6. Rèn kỹ năng: Đọc - Viết - Nghe - Nói. Thạc sĩ: Trần Thị Hiền Lương - Viện khoa học giáo dục. 7. Trang sách và cuộc đời: “Văn hay nhưng chữ phải đẹp” Tiếng Việt lớp 1 (Tập 1 - Tập 2) 8. Vở tập viết lớp 1 21