Bài giảng Giáo dục quốc phòng, an ninh Khối 11 - Tiết 1: Cầm máu tạm thời, cố định tạm thời xương gãy, hô hấp nhân tạo và kỹ thuật chuyển thương

doc 10 trang Thủy Hạnh 11/12/2023 1110
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Giáo dục quốc phòng, an ninh Khối 11 - Tiết 1: Cầm máu tạm thời, cố định tạm thời xương gãy, hô hấp nhân tạo và kỹ thuật chuyển thương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_giao_duc_quoc_phong_an_ninh_khoi_11_tiet_1_cam_mau.doc

Nội dung text: Bài giảng Giáo dục quốc phòng, an ninh Khối 11 - Tiết 1: Cầm máu tạm thời, cố định tạm thời xương gãy, hô hấp nhân tạo và kỹ thuật chuyển thương

  1. TIẾT 1: CẦM MÁU TẠM THỜI, CỐ ĐỊNH TẠM THỜI XƯƠNG GÃY, HÔ HẤP NHÂN TẠO VÀ KỸ THUẬT CHUYỂN THƯƠNG MỞ ĐẦU Bài học này nhằm cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về cầm máu tạm thời, cố định tạm thời gãy xương, hô hấp nhân tạo và kĩ thuật chuyển thương nhằm giúp người học có thể thực hiện được các kĩ thuật này trong những trường hợp cần thiết khi gặp các tai nạn xảy ra. I. CẦM MÁU TẠM THỜI 1. Mục đích : Cầm máu tạm thời bằng những biện pháp đơn giản nhất nhằm mục đích nhanh chóng làm ngừng chảy máu, hạn chế thấp nhất sự mất máu, góp phần cứu sống tính mạng nạn nhân, tránh các tai biến nguy hiểm về sau. 2. Nguyên tắc cầm máu tạm thời: a. Phải nhanh chóng, khẩn trương làm ngừng chảy máu. Tất cả các vết thương ít nhiều đều có chảy máu, nhất là tổn thương các mạch máu lớn, máu chảy rất nhiều, cần phải thật khẩn trương làm ngừng chảy máu ngay tức khắc, nếu không mỗi giây phút chậm trễ là thêm một khối lượng máu mất đi, dễ có nguy cơ dẫn đến choáng hoặc chết do mất máu. b. Phải xử trí đúng chỉ định theo tính chất từng loại vết thương. Các biện pháp cầm máu tạm thời đều tùy thuộc vào tính chất chảy máu, cần phải xử trí đúng chỉ định theo yêu cầu của từng vết thương, không tiến hành một cách thiếu thận trọng, nhất là khi quyết định đặt ga-rô. c. Phải đúng quy trình kỹ thuật. Các biện pháp cầm máu tạm thời đều có quy trình kỹ thuật nhất định. Tiến hành cầm máu phải đúng kỹ thuật mới có thể đem lại hiệu quả cao. 3. Phân biệt các loại chảy máu : Căn cứ vào mạch máu bị tổn thương, người ta có thể chia thành 3 loại chảy máu như sau : a. Chảy máu mao mạch : Máu đỏ thẩm, thấm ra tại chổ bị thương, lượng máu ít có thể tự cầm sau ít phút. b. Chảy máu tĩnh mạch vừa và nhỏ : Máu đỏ thẩm, chảy ri rỉ tại chổ bị thương, lượng máu vừa phải, không nguy hiểm, nhanh chóng hình thành cục máu đông bít các tĩnh mạch bị tổn thương lại. Tuy nhiên tổn thương các tĩnh mạch lớn (tĩnh mạch chủ, tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch dưới đòn ) vẫn gây chảy máu ồ ạt rất nguy hiểm. c. Chảy máu động mạch : Máu đỏ tươi chảy vọt thành tia (theo nhịp tim đập) hoặc trào ra miệng vết thương như mạch nước đùn từ đáy giếng lên, lượng máu có thể nhiều hoặc rất nhiều tùy theo động mạch bị tổn thương. 4. Các biện pháp cầm máu tạm thời :
  2. Cầm máu tạm thời ngay sau khi bị thương không nhất thiết phải do cán bộ y tế làm, bản thân người bị thương có thể tự làm hoặc do những người xung quanh trực tiếp làm. a. Ấn động mạch : Dùng các ngón tay ấn đè mạnh trên đường đi của động mạch, làm ngưng chảy máu ngay tức khắc, nhưng không giữ lâu được vì mõi tay. Đây là biện pháp cầm máu tức thời, đòi hỏi người làm phải có kiến thức về đường đi của mạch máu, sau đó phải chuyển sang biện pháp cầm máu khác ổn định hơn. Một số điểm chính để ấn động mạch trên cơ thể : - Ấn động mạch trụ và quay ở cổ tay : khi chảy máu nhiều ở bàn tay, dùng ngón cái ấn vào động mạch trụ và quay ở phía trên cổ tay ( nơi bắt mạch tay ). - Ấn động mạch cánh tay ở mặt trong cánh tay : khi chảy máu nhiều ở cẳng tay, cánh tay, dùng ngón cái hoặc bốn ngón ấn mạnh vào mặt trong cánh tay phía trên vết thương. Nếu vết thương ở cao, ấn sau vào động mạch nách ở đỉnh hố nách. - Ấn động mạch dưới đòn ở hõm xương đòn : Khi chảy máu nhiều ở hố nách, dùng ngón cái ấn mạnh và sâu ở hố trên đón sát giữa bờ sau xương đòn làm động mạch bị ép chặt vào xương sườn, máu sẽ ngừng chảy. - Ấn động mạch đùi ở giữa nếp bẹn : đặt người bị thương nằm ngửa, dùng hai ngón cái ấn thật mạnh vào giữa nếp bẹn, các ngón khác ôm lấp mặt ngoài và mặt trong đùi. Có thể dùng cuộn băng đặt giữa nếp bẹn rồi ấn thật chặt, máu ngừng chảy. - Ấn động mạch cảnh ở cổ : khi chảy máu nhiều vùng cổ, dùng ngón cái ấn mạnh vào cổ phía dưới vết thương theo bờ trước cơ ức - cơ đòn - chũm. Khi chảy máu nhiều ở vùng má, dùng ngón cái ấn mạnh vào động mạch mặt ở bờ dưới xương hàm dưới, cách góc xương hàm dưới khoảng 3cm. b. Gấp chi tối đa : Gấp chi tối đa là biện pháp cầm máu tốt, đơn giản, mọi người đều có thể tự làm được. Khi gấp chi mạnh, các mạch máu cũng bị gấp và bị đè ép bởi các khối cơ bao quanh làm máu ngừng chảy. Gấp chi tối đa cũng chỉ là biện pháp tạm thời vì không giữ được lâu. Trường hợp có gãy xương kèm theo vết thương thì không được thực hiện gấp chi tối đa. - Gấp cẳng tay vào cánh tay : Khi chảy máu nhiều ở bàn tay và cẳng tay, phải gấp ngay thật mạnh cẳng tay vào cánh tay, máu ngừng chảy. Khi cần giữ lâu để chuyển người bị thương về các tuyến cứu chữa, cần cố định tư thế gấp bằng một vài vòng băng ghì chặt cổ tay vào phần trên cánh tay. - Gấp cánh tay vào thân người (có con chèn) : Khi chảy máu nhiều do tổn thương động mạch cánh tay, lấy ngay một khúc gỗ tròn đường kính 5 – 10cm hay cuộn băng hoặc bất cứ vật rắn nào tương tự kẹp chặt vào nách ở phía trên chỗ chảy máu, rồi cố định cánh tay vào thân người bằng một vài vòng băng, máu ngừng chảy. - Gấp cẳng chân vào thân đùi : Khi chảy máu quá nhiều ở bàn chân, người bị thương nằm ngửa hoặc ngồi, dùng hai bàn tay kéo mạnh cẳng chân ép vào đùi. Muốn chắc chắn có thể đệm một cuộn băng vào nếp khoeo rồi cố định cổ chân vào đùi bằng một vài vòng băng.
  3. Gấp đùi vào thân người : Khi chảy máu nhiều ở đùi, người bị thương nằm ngửa, dùng hai tay kéo mạnh đầu gối để ép chặt đùi vào thân người. Có thể cuốn vài vòng băng hoặc dùng dây lưng để cố định đùi vào thân người. c. Băng ép chặt : Là phương pháp băng vết thương với các vòng băng xiết tương đối chặt vết thương tạo điều kiện cho việc nhanh chóng hình thành cục máu làm máu ngừng chảy ra ngoài. Cách tiến hành băng ép : + Đặt một lớp gạc và bông hút phủ kín vết thương. + Đặt một lớp bông mỡ dày phủ trên lớp bông gạc. + Băng theo kiểu xoắn vòng hoặc số 8 (nên dùng loại băng thun vì loại băng này có tính chất thun giãn tốt). d. Băng chèn : Băng chèn cũng là kiểu đè ép tác dụng như ấn động mạch, nhưng không phải bằng ngón tay mà dùng vật tròn, cứng, nhẵn không sắc cạnh, gọi là con chèn : cành cây nhỏ dài khoảng 2cm, như lọ thuốc pénicilin, cuộn băng, đặt vật chèn trên đường đi của động mạch, càng gần sát vết thương càng tốt, sau đó băng ép cố định vật chèn bằng nhiều vòng băng xiết tương đôí chặt. e. Băng nút : Băng nút là cách băng ép, đối với vết thương có miệng lớn; dùng gạc, bông nhét chặt vào miệng vết thương rồi băng ép chặt lại để cầm máu. f. Ga-rô : Ga-rô là biện pháp cầm máu tạm thời bằng sợi dây cao su xoắn chặt vào đoạn chi làm ngừng sự lưu thông máu, máu sẽ ngừng chảy. Do sự ngừng lưu thông máu trong thời gian nhất định (khoảng 60 – 90 phút)dễ gây ra tai biến nguy hiểm, vì thế không nên tùy tiện làm ga-rô nếu không nắm vững những qui định về ga-rô. - Chỉ dịnh ga-rô : Ga-rô được phép làm trong các trường hợp sau đây : + Vết thương ở chi chảy máu ồ ạt, phân thành tia hoặc trào ra vết thương. + Vết thương bị cắt cụt tự nhiên. + Vết thương phần mềm hoặc gãy xương có kèm theo tổn thương động mạch đã cầm máu bằng các biện pháp tạm thời khác không có hiệu quả. + Bị Rắn cắn. - Nguyên tắc ga-rô : ga-rô là biện pháp cầm máu nhanh, đơn giản và triệt để, nhưng dễ gây tai biến nguy hiểm, vì vậy khi đặt ga-rô cần phải theo các nguyên tắc sau đây : + Phải đặt ga-rô ngay sát phía trên vết thương và để lộ ra ngoài. Tuyệt đối không vật gì che lấp ga-rô. + Người bị đặt ga-rô phải được nhanh chóng chuyển về các nơi cứu chữa, trên đường vận chuyển cứ 1 giờ phải nới ga-rô một lần, không để ga-rô lâu quá 3 – 4 giờ.
  4. + Phải chấp hành triệt để những quy định về ga-rô: Có kí hiệu bằng vải đỏ cài vào nút áo bên trái. Ghi chép đầy đủ thủ tục hành chánh như : họ tên địa chỉ người bị ga-rô, thời gian bắt đầu đặt ga-rô, thời gian nới ga-rô lần 1, lần 2 , hô tên địa chỉ người ga-rô để giúp các tuyến trên theo dõi và xử trí. Cách đặt ga-rô : Dây ga-rô thường dùng sợi dây cao su to bản (3 – 4cm) mỏng và tác dụng đàn hồi tốt. Trường hợp khẩn cấp có thể sử dụng bất kỳ loại dây nào khác như : cuộn băng, dây cao su tròn, quai dép để ga-rô. Thứ tự ga-rô như sau: + Ấn động mạch phía trên vết thương. + Lót vải gạc chỗ định ga-rô. + Đặt dây ga-rô rồi từ từ xoắn, vừa xoắn vừa bỏ tay ấn động mạch ra, theo dõi không thấy chảy máu ở vết thương là được. + Băng vết thương và làm các thủ tục hành chánh. - Cách nới ga-rô : Nới ga-rô để cho máu lưu thông xuống nuôi dưỡng đoạn chi dưới ga-rô. Cách nới ga-rô như sau : + Một người ấn động mạch phía trên ga-rô. + Một người nới dây ga-rô, nới từ từ, theo dõi sắc mặt người bị thương, tình hình chảy máu ở vết thương, mạch và màu sắc đoạn chi dưới ga-rô. Thời gian nới ga-rô khoảng 4 – 5 phút sau đó đặt ga-rô lại ngay. Khi ga-rô không đặt ở chỗ cũ mà có thể chích lên hoặc xuống một ít khỏi gây lằn da thịt và thiếu máu kéo dài ở chỗ đặt ga-rô. + Một số trường hợp như: Vết thương bị cụt tự nhiên, đoạn chi phần dưới ga-rô có dấu hiệu hoại tử không được nới ga-rô để tránh tai biến nguy hiểm. II. CỐ ĐỊNH TẠM THỜI XƯƠNG GÃY 1. Tổn thương gãy xương: Tất cả vết thương gãy xương kể cả trong chiến tranh hay do các tai nạn bất thường đều có thể xảy ra dưới dạng gãy xương kín, hoặc gãy hở, tổn thương thường rất phức tạp như : - Xương bị gãy rạn, gãy chưa rời hẳn, gãy rời thành nhiều mảnh, nhiều đoạn - Da thịt bị dập nát, đôi khi mạch máu, thần kinh xung quanh cũng bị tổn thương. - Rất dễ gây choáng do đau đớn, mất máu và nhiễm trùng do môi trường xung quanh. 2. Mục đích : Băng bó cố định tạm thời ngay nhằm mục đích làm giảm đau đớn, cầm máu tại vết thương đồng thời giữ cho đầu xương gãy tương đối yên tĩnh đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển người bị thương về các tuyến cứu chữa. 3. Nguyên tắc cố định tạm thời xương gãy : Nẹp phải cố định được cả khớp trên và khớp dưới chổ gãy. Với các xương lớn như xương đùi, cột sống phải cố định được từ 3 khớp trở lên. - Không đặt nẹp cứng vào sát chi mà phải đệm lót những chỗ tiếp xúc bằng bông, băng, vải không cần cởi quần áo của người bị thương.
  5. - Không co kéo, nắn chỉnh ổ gãy tránh gây tai biến nguy hiểm. Nếu cần thì chỉ có thể nhẹ nhàng kéo chỉnh lại trục chi bớt biến dạng sau khi đã được giảm đau thật tốt. - Băng cố định phải tương đối chắc, không để nẹp xộc xệch, nhưng cũng không quá chặt làm cản trở sự lưu thông máu. 4. Kỹ thuật cố định tạm thời xương gãy : ( Thực hành ). Thao tác cố định tạm thời xương gãy tuy không phúc tạp nhưng đòi hỏi mọi người phải thuần thục kỹ thuật cố định ở mỗi tư thế, đồng thời phải chuần bị đầy đủ dụng cụ khi cấp cứu mới có thể đem lại hiệu quả tốt cho người bị thương. a. Các loại nẹp thường dùng cố định tạm thời xương gãy : - Nẹp tre: là loại nẹp được dùng rất phổ biến, dễ làm, song phải đúng quy cách sau: + Chiều rộng của nẹp : 5 – 6cm. + Chiều dày của nẹp : 0,5 – 0,8cm. + Chiều dài của nẹp : tùy thuộc từng chi gãy. - Nẹp cẳng tay : 2 nẹp, một nẹp dài 30cm, một nẹp dài 35cm. - Nẹp cánh tay : 2 nẹp, một nẹp dài 20cm, một nẹp dài 35cm. - Nẹp cẳng chân : 2 nẹp – mỗi nẹp dài 60cm. - Nẹp đùi : 3 nẹp, nẹp ngoài dài 120cm, nẹp sau dài 100cm, nẹp trong dài 80cm, kích thước này chỉ là tương đối, khi sử dụng cần cắt nẹp cho phù hợp với từng người. - Nẹp sắt cờ-ra-me : là loại nẹp làm bằng dây thép có hình bậc thang, có thể uốn nẹp theo các tư thế cần cố định hoặc nối hai nẹp với nhau khi cần một nẹp dài. Nẹp cờ-ra-me cố định tốt, thuận tiện, song thực tế ít được sử dụng để cố định tạm thời xương gãy ngay tại nơi bị thương, bị nạn. Trong tình huống khẩn cấp nếu không có các loại nẹp chuẩn bị sẵn có thể vận dụng một số phương tiện như : cành cây, gậy gỗ, đòn gánh làm nẹp. b. Kỹ thuật cố định tạm thời một số trường hợp xương gãy : - Cố định tạm thời gãy xương bàn tay, khớp cổ tay : dùng một nẹp tre to bản hoặc nẹp cờ-ra-me. + Đặt một cuộn băng hoặc một cuộn bông vào lòng bàn tay, để bàn tay ở tư thế nửa sấp, các ngón tay nửa gấp. + Đặt nẹp thẳng từ bàn tay đến khuỷu tay. + Băng cố định bàn tay, cẳng tay vào nẹp, để hở các đầu ngón tay tiện theo dõi sự lưu thông máu. + Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 900. - Cố định tạm thời xương gãy cẳng tay : dùng 2 nẹp tre hoặc nẹp cờ-ra-me. + Đặt nẹp ngắn ở mặt trước cánh tay (phía lòng bàn tay) từ bàn tay đến nếp khuỷu. + Đặt nẹp dài ở mặt sau cánh tay (phía mu bàn tay) từ khớp ngón tay đến mỏm khuỷu. + Buộc một đoạn ở cổ tay và bàn tay, một đoạn ở trên và dưới nếp khuỷu để cố định cẳng tay, bàn tay vào nẹp. + Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 900.
  6. + Trường hợp cố định nẹp cờ-ra-me phải uốn nẹp theo tư thế gấp 900. Đặt nẹp cờ-ra-me vào mặt sau cánh tay, cẳng tay từ khớp bàn tay đến giữa cánh tay. Dùng cuộn băng cuốn xoắn vòng từ bàn tay đến giữa cẳng tay để cố định cẳng tay, cánh tay vào nẹp. Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay. - Cố định tạm thời gãy xương cánh tay : dùng 2 nẹp tre hoặc nẹp cờ-ra-me. + Đặt nẹp ngắn ở mặt trong cánh tay từ nếp khuỷu đến hố nách. + Đặt nẹp dài ở mặt ngoài cánh tay từ mỏm khuỷu đến mỏm vai. + Buộc một đoạn ở một phần ba trên cánh tay và khớp vai, một đoạn ở trên và dưới khớp khuỷu để cố định cánh tay vào nẹp. + Dùng khăn tam giác hoặc cuộn băng treo cẳng tay ở tư thế gấp 90 0 và cuốn vài vòng băng buộc cánh tay vào thân người. + Trường hợp cố định nẹp cờ-ra-me : Đặt cẳng tay vuông góc với cánh tay ở tư thế nửa sấp, cánh tay sát vào thân người, dùng cuộn băng hoặc cuộn bông lót vào nách. Uốn nẹp theo tư thế của chi đi từ cổ tay vòng qua mặt ngoài cánh tay uốn ra sau lưng với mặt sau bả vai chi lành. Dùng cuộn băng buộc đấu trên với đấu dưới của nẹp, dải băng đi trước và sau thân. Cuốn nhiều vòng băng để cố định nẹp vào chi và thân người. - Cố định tạm thời gãy xương cẳng chân: dùng 2 nẹp tre hoặc nẹp cờ-ra-me. + Đặt hai nẹp ở mặt trong và mặt ngoài cẳng chân, từ gót lên tới giữa đùi. + Đặt bông đệm lót vào các đầu xương. + Buộc một đoạn ở cổ và bàn chân, một đoạn ở trên và dưới gối, một đoạn ở giữa đùi cố định chi gãy vào nẹp. + Trường hợp cố định nẹp cờ-ra-me : Đặt một nẹp cờ-ra-me ở mặt sau của chi kéo dài từ giữa đùi đến gót chân, rồi bẻ nẹp vuông góc với bàn chân tới ngón chân. Đặt bông đệm lót rồi băng cố định cẳng chân vào nẹp. - Cố định tạm thời gãy xương đùi : dùng 3 nẹp tre hoặc 3 nẹp cờ-ra-me. + Đặt nẹp sau từ ngang thắt lưng (trên mào xương chậu) đến gót chân. + Đặt nẹp ngoài từ hố nách đến gót chân + Đặt nẹp sau từ hố bẹn đến gót chân. + Dùng băng đệm lót vào các đầu xương. + Buộc một đoạn ở cổ chân hoặc bàn chân, một đoạn ở trên và dưới gối, một đoạn ở bẹn, một đoạn ở ngang thắt lưng, một đoạn ở ngang hố nách để cố định chi gãy vào nẹp. + Sau đó buộc chi gãy đã cố định vào chi lành ở cổ chân, gối và đùi, trước khi vận chuyển. + Trường hợp cố định nẹp cờ-ra-me cũng làm tương tự như cố định bằng nẹp tre. + Đối với các trường hợp gãy xương đùi, mặc dù đã được cố định đều phải vận chuyển bằng cáng cứng. III. HÔ HẤP NHÂN TẠO :
  7. Là biện pháp làm cho không khí ở ngoài vào phổi và ở trong phổi ra ngoài để thay thế cho quá trình hô hấp tự nhiên khi nạn nhân bị ngạt thở. 1. Nguyên nhân gây ngạt thở : Ngạt thở là biểu hiện của sự thiếu Oxy, có thể thiếu Oxy ở phổi, ở trong máu và tế bào, nhất là tế bào thần kinh, làm cho các tế bào bị tê liệt rồi chết. Các nguyên nhân thường gây ra ngạt thở : - Do chết đuối (ngạt nước). - Bị vùi lấp khi sập hầm, đổ nhà cửa, đất cát vùi lấp miệng mũi bị đất cát lấp kín nhanh chóng gây ngạt thở. - Do hít phải chất khí độc. - Do tắc nghẽn đường hô hấp trên như bị bóp cổ, thắt cổ, bị các vật lạ làm tắc đường hô hấp. Người bị ngạt thở thường nằm yên, không tỉnh, ngừng hô hấp, sắc mặt trắng nhợt hoặc tím tái, chân tay lạnh, tim ngừng đập, mạch không sờ thấy. 2. Cấp cứu ban đầu : Yêu cầu : “Cấp cứu nhanh, khẩn trương, kiên trì và thành thạo kỹ thuật”. Cấp cứu ban đầu cần tiến hành sớm trong vòng 5 phút đầu tiên mới có hiệu quả cao. a. Những biện pháp cần làm ngay : - Loại bỏ nguyên nhân gây ngạt : Bới đất cát cho người bị vùi dập, vớt người chết đuối, đưa người bị nhiễm độc ra nơi an toàn, để người bị nạn tại nơi thông thoáng, tránh tập trung đông người, nhanh chóng gọi người hỗ trợ và gọi cấp cứu lưu động. - Khai thông đường hô hấp trên, lau chùi đất cát, đờm dãi ở mũi, miệng, cần thiết hút trực tiếp bằng miệng. Nới hoặc tháo bỏ quần áo, các dây nịt, thắt lưng, dây thắt cổ để người bị nạn dễ có thể tự thở được. - Làm hô hấp nhân tạo, đồng thời bằng mọi cách kích thích lên người nạn nhân như: chà xát mạnh khắp người, giật tóc mai, hoặc nếu có thì đốt quả bồ kết thổi khói vào hai lỗ mũi, nếu nạn nhân nấc lên sẽ có khả năng thở lại được, xoa dầu chống lạnh hoặc sưởi ấm nạn nhân, nếu có điều kiện thì chích thuốc trợ tim b. Các phương pháp hô hấp nhân tạo : - Thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực : một hoặc hai người làm. + Thổi ngạt : Người bị nạn nằm ngửa, kê một chiếc gối hoặc chăn, màn dưới gáy cho đầu hơi ngửa ra sau. Người cấp cứu quỳ bân phải sát ngang vai nngười bị nạn, dùng một ngón tay cuốn miếng gạc hoặc vải sạch đưa vào trong miệng người bị nạn lau sạch đờm dãi, các chất nôn Dùng một tay bóp kín hai bên mũi, một tay đẩy mạnh cầm cho miệng há ra, hít nột hơi thật dài, áp miệng mình vào sát miệng người bị nạn thổi mạnh. Làm liên tiếp với nhịp độ 15 – 20 lần/phút. + Ép tim ngoài lồng ngực : Người cấp cứu quỳ bên phải ngang thắt lưng người bị nạn. Đặt bàn tay phải chồng lên bàn tay trái, các ngón tay xen kẽ nhau, đè lên một phần ba dưới xương ức, các ngón tay chếch sang bên trái. Ép mạnh bằng sức nặng cơ thể xuống xương
  8. ức người bị nạn với một lực vừa đủ để lồng ngực lún xuống 2 – 3cm. Với trẻ nhỏ lực ép nhọ hơn. Sau mỗi lần ép thả lỏng tay cho ngực trở lại vị trí bình thường.Duy trì với nhịp độ 50 – 60 lần/phút. Trường hợp chì có một người làm nên duy trì 2 lần thổi ngạt – 15 lần ép tim. Trường hợp 2 người làm, người thổi ngạt quỳ bên trái, người ép tim quỳ bên phải người bị nạn và duy trì một lần thổi ngạt – 5 lần ép tim. Làm liên tục cho đến khi người bị nạn thở được, tim đập lại thì dừng. - Phươn pháp Nin-sen (Nilsen): + Phương pháp này chỉ cần một người làm. + Đặt người bị nạn nằm sấp, đầu quay sang một bên, gối lên hai bàn tay đã bắt chéo nhau trên đầu. + Người cấp cứu quỳ ở bên phía đầu đặt hai bàn tay lên hai bả vai người bị nạn. + Thở ra : Người cấp cứu hơi ngả về trước, hai cánh tay thẳng, ấn mạnh xuống hai bả vai người bị nạn rồi đột ngột buông lỏng tay làm cho không khí ở trong phổi ra ngoài. + Thở vào : Cầm tay người bị nạn ở sát mỏm khuỷu kéo cánh tay lên trên và về phía đầu (không nhấc đầu lên) xong lại đặt tay về tư thế ban đầu làm cho không khí ở ngoài vào phổi. + Làm với nhịp độ 10 – 12 lần/phút. - Phương pháp Xin-Vétstơ (Sylvester) : + Người bị nạn nằm ngửa đầu quay về một bên có chăn hoặc gối đệm dưới lưng. + Người cấp cứu quỳ ở phía đầu, nắm chặt lấy cổ tay người bị nạn + Thở ra : Đưa hai cẳng tay người bị nạn gập vào trước ngực, người cấp cứu hơi nhổm về phía trước, tay duỗi thẳng ép mạnh để làm cho không khí ở trong phổi ra ngoài. + Thở vào : Người cấp cứu ngồi xuống đồng thời kéo hai cổ tay người bị nạn dang rộng ra tới chạm đầu rồi lại đưa trở về tư thế ban đầu làm cho không khí ở ngoài vào trong phổi. + Làm với nhịp độ 10 – 12 lần/phút. c. Những điểm chú ý khi làm hô hấp nhân tạo : - Làm càng sớm càng tốt, kiên trì cho đến khi nạn nhân tự hô hấp được, làm từ 40- 60 phút mà không hiệu quả thì dừng. - Làm đúng nguyên tắc, lực đủ mạnh, nhịp độ đều đặn mới thực sự hiệu quả. - Chọn nơi thông thoáng nhưng cũng không lạnh giá. - Không làm hô hấp nhân tạo cho người bị nhiễm chất độc hóa học, bị sức ép, bị thương ở ngực, gãy xương sườn, tổn thương cột sống. - Tuyệt đối không chuyển người bị ngạt về các tuyến khi hô hấp tự nhiên chưa hồi phục. 3. Tiến triển của việc cấp cứu ngạt thở : a. Tiến triển tốt : Hô hấp dần dần hồi phục, người bị nạn nấc và bắt đầu thở, lúc đầu thở ngập ngừng không đều, tiếp tục làm hô hấp nhân tạo theo nhịp thở của nạn nhân cho đến khi thở đều, sâu; môi và sắc mặt hồng trở lại.
  9. b. Tiến triển xấu : Chỉ ngừng làm hô hấp nhân tạo khi có những dấu hiệu chết xuất hiện như : - Các mảng tím tái xuất hiện trên da ở những chổ thấp. - Nhãn cầu mềm và nhiệt độ hậu môn dưới 25o. - Bắt đầu có hiện tượn cứng đờ của xác chết. IV. KỸ THUẬT CHUYỂN THƯƠNG : Chuyển thương là nhanh chóng chuyển người bị thương, bị nạn đến nơi an toàn hoặc về các tuyến để kịp thời cứu chữa. Phương pháp chuyển thương phải thích hợp với yêu cầu của từng vết thương mới đảm bảo an toàn. 1. Mang vác bằng tay không : Thường do một người làm, vì vậy kgông chuyển đi xa được. Mang váv bằng tay không có thể vận dụng một số kỹ thuật sau : - Cõng trên lưng, đơn giản nhưng không đi xa được vì mõi. - Dìu đối với người bị thương nhẹ. - Vác trên vai đối với người bị thương nhẹ ở chân không tự đi được. - Bế người bị thương nhưng cũng không đi xa được. 2. Chuyển thương bằng cáng : là cách phổ biến và đảm bảo an toàn nhất. Có nhiều loại cáng khác nhau như : - Cáng bạt khiêng tay. - Cáng võng đay, võng bạt. Tùy theo yêu cầu của từng vết thương cũng như điều kiện cụ thể mà sử dụng loại cáng thích hợp. Kỹ thuật cáng thương: - Đặt người bị thương lên cáng (hai người làm): Đặt cáng bên cạnh người bị thương, hai người quỳ bên cạnh nạn nhân, đối diện với cáng, luồn tay dưới người nạn nhân, một người đỡ gáy và lưng, một người đỡ thắt lưng và khủyu gối cùng nhấc lên từ từ đặt lên cáng. + Lồng đòn cáng và buộc dây cáng (nếu là cáng võng ). + Với người bị gãy xương đùi hoặc tổn thương cột sống, phải đặt một khung tre vào trong cáng võng, chiều dài khung tùy theo xương gãy. - Kỹ thuật cáng thương : + Mỗi người cáng cần có một gậy dài khỏang 1,4 - 1,5m có chạc ở đầu trên để đỡ đòn cáng khi cần nghỉ hoặc đổi vai. + Khi cáng trên đường không đi đều bước để cáng khỏi lắc lư, giữ tốc độ cho đều. + Khi đi trên đường dốc phải cố giữ cho đòn cáng thăng bằng.
  10. Câu hỏi Lấy điểm cộng 15 phút và thu lại khi vào học Chú ý: các em gửi bài vào địa chỉ phía dưới để thầy đối chiếu với bài em nộp. 1. Em hãy trình bày các bước sơ cứu khi người bị gãy xương? 2. Em hãy trình bày kỹ thuật chuyển thương bằng cán? Các em nộp bài trên mail: Lớp 11A1, A2, A3, A4: Thầy Vinh quangvinh.ngo77@gmail.com Lớp 11A5, A6, A7, A8, A9, A10, A11, A12, A13: Thầy Chánh caovanchanh82@gmail.com